Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng sử dụng thực phẩm giàu vi chất sẵn có tại địa phương đến tình trạng dinh dưỡng của trẻ từ 6 23 tháng tuổi tại một huyện trung du phía bắc. tt
- 24 trang
- file .doc
1
MỞ ĐẦU
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), năm 2013 trong
nhóm các nước đang phát triển có khoảng 195 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
bị SDD thấp còi – chiều cao theo tuổi thấp (chiếm khoảng 30%), 129
triệu trẻ SDD nhẹ cân – cân nặng theo tuổi thấp (chiếm 25%) và 67
triệu trẻ bị SDD gầy còm – cân nặng/chiều cao thấp (13%) và khoảng
20 triệu trẻ sơ sinh có cân nặng thấp dưới 2500g (15%). Gần đây nhất,
theo báo cáo của UNICEF/WHO/WB (2018) cho biết trên thế giới
vẫn còn 151 triệu trẻ bị thấp còi (22,2%) bên cạnh 51 triệu trẻ SDD
cấp tính (wasted; 7,5%) và 38 triệu trẻ thừa cân/béo phì (5,6%); riêng
châu Á chiếm quá nửa các con số này (83,6 triệu; 35 triệu và 17,5
triệu; tương ứng).
Theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng quốc gia, ở nước ta
tuy tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm nhiều: năm 1985 tỷ lệ SDD
thể nhẹ cân là 51,5%, thấp còi 59,7%, gầy còm 7,0%. Đến năm 2013
tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm xuống còn 15,3%, gầy còm 6,6%, nhưng
tỷ lệ SDD thấp còi vẫn còn 25,9%, con số này vẫn xấp xỉ ở mức cao
theo phân loại của WHO và vào năm 2014, tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ
em dưới 5 tuổi trên toàn quốc đã giảm xuống còn 24,9%; tuy nhiên tỷ
lệ này ở nhiều tỉnh thành trong cả nước còn cao trên 30%, đặc biệt các
tỉnh ở vùng Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc. Chính vì vậy, chiến
lược quốc gia năm 2010-2020 và tầm nhìn 2030 đã đặt mục tiêu giảm
tỷ lệ SDD thấp còi xuống còn 23% vào năm 2020 và xác định can
thiệp hiệu quả nhất với SDD thấp còi phải có tính dự phòng, toàn
diện, trong đó cải thiện về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ (bao gồm
nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung) được coi là những can thiệp cần
được ưu tiên. Trong đó, truyền thông giáo dục dinh dưỡng, thúc đẩy
sử dụng nguồn thực phẩm tại chỗ là hoạt động trọng tâm và là điểm
nhấn mạnh, nhưng cần được thực hiện theo đặc thù của vùng địa lý,
dân tộc và dựa vào các bằng chứng hoặc nghiên cứu về dinh dưỡng và
tập quán dinh dưỡng của từng địa phương.
2
Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu can thiệp dinh
dưỡng trong thời kì bà mẹ mang thai và 2 năm đầu đời của trẻ thông
qua giáo dục truyền thông được ghi nhận có hiệu quả cải thiện tình
trạng thấp còi của trẻ ở một số khu vực. Tuy nhiên chưa có nhiều
nghiên cứu can thiệp ở những vùng trung du, miền núi nghèo nhằm
hướng dẫn cộng đồng biết và sử dụng thực phẩm giàu vi chất dinh
dưỡng sẵn có tại chỗ để cải thiện tình trạng thấp còi ở trẻ nhỏ.
Tam Nông là một trong những huyện nghèo của tỉnh Phú Thọ,
kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp thuộc khu vực các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc, đề tài “Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh
dưỡng sử dụng thực phẩm giàu vi chất sẵn có tại địa phương đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ từ 6-23 tháng tuổi tại một huyện trung du phía
Bắc” đã được thực hiện; góp phần vào các giải pháp phòng chống SDD
thấp còi, cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng của trẻ ở địa phương này
cũng như những khu vực có điều kiện tương tự.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh
dưỡng của trẻ 6 – 23 tháng tuổi tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ năm
2012.
2. Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng đến thực hành
chăm sóc trẻ của bà mẹ có con 6 – 23 tháng tuổi thấp còi và có nguy cơ
thấp còi tại 2 xã can thiệp.
3. Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng đến tình trạng
dinh dưỡng, tình trạng vitamin A, tình trạng kẽm và thiếu máu của trẻ 6 –
23 tháng tuổi thấp còi và có nguy cơ thấp còi tại 2 xã can thiệp.
Bố cục của luận án: Luận án gồm 121 trang, bố cục như sau:
Đặt vấn đề: 3 trang; Mục tiêu, giả thuyết nghiên cứu: 1 trang ;
Tổng quan: 38 trang; Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 23
trang; Kết quả nghiên cứu: 24 trang; Bàn luận: 29 trang; Kết luận và
khuyến nghị: 3 trang; Có 181 tài liệu tham khảo.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi
1.1.1. Nguyên nhân SDD thấp còi
Năm 1997, UNICEF đã xây dựng và phát triển mô hình nguyên
nhân SDD. Một số tổ chức khác cũng đã có những mô hình nguyên
nhân – hậu quả của SDD riêng hoặc phát triển mô hình mới dựa trên
mô hình của UNICEF. Nhưng mô hình của UNICEF hiện tại vẫn
đang được sử dụng rộng rãi nhất.
Nguyên nhân trực tiếp: Khẩu phần ăn thiếu về số lượng hoặc
kém về chất lượng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến SDD:
Trẻ không được bú sữa mẹ đầy đủ, cho ăn bổ sung quá sớm hoặc cho
trẻ ăn thức ăn đặc quá muộn, số lượng thức ăn không đủ, năng lượng
và protein trong khẩu phần ăn thấp. Tần suất sử dụng các thực phẩm
như thịt, cá, trứng, sữa trong bữa ăn của trẻ thấp do điều kiện kinh tế
gia đình hoặc do hiểu biết của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
còn hạn chế. SDD và bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ em ảnh hưởng tới sự
phát triển chung của trẻ trong thời gian dài. Cùng với tiêu chảy,
nhiễm khuẩn hô hấp cấp, SDD là một trong những nguyên nhân
hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột
cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng SDD, thiếu máu ở
trẻ em.
Nguyên nhân tiềm tàng: Nguyên nhân sâu xa đó là sự yếu kém
trong dịch vụ chăm sóc bà mẹ, trẻ em; kiến thức của người chăm sóc
trẻ, yếu tố chăm sóc của gia đình, vấn đề nước sạch, vệ sinh môi
trường và tình trạng nhà ở không đảm bảo vệ sinh, tình trạng đói
nghèo, lạc hậu về các mặt phát triển nói chung bao gồm cả mất bình
đẳng về kinh tế.
4
Tình hình an ninh lương thực hộ gia đình
Mất an ninh thực phẩm hộ gia đình: Chính là nguyên nhân làm
cho SDD trở thành gánh nặng sức khỏe ở nhiều nước đang phát triển;
tỷ lệ SDD trước tuổi đi học chiếm 20 - 50%; khu vực Đông Nam Á có
tỷ lệ mắc khá cao (40 - 50%), tỷ lệ này tăng lên khi xảy ra nạn đói hoặc
có các tình trạng khẩn cấp như chiến tranh, bão lũ, động đất.
1.1.2. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi và thiếu vi chất dinh
dưỡng tại Việt Nam
Tỷ lệ SDD thể thấp còi trẻ dưới 5 tuổi đã giảm trong vòng 10
năm từ 2000-2009 từ 36,5% xuống còn 31,9%, đặc biệt từ năm 2010,
tỷ lệ này lại có xu hướng giảm khá nhanh, xuống còn 29,3% và đến
năm 2015 còn 24,6%. Tỷ lệ SDD thấp còi mức độ vừa cũng có xu
hướng giảm dần, từ 21,5% năm 2002 còn 16,1% năm 2011. Tuy
nhiên tỷ lệ SDD thấp còi mức độ nặng lại không giảm. Thiếu vi chất
dinh dưỡng (VCDD) đặc biệt là thiếu máu và thiếu kẽm có liên quan
chặt chẽ với SDD thấp còi. Các VCDD tham gia vào hầu hết các quá
trình của cơ thể như quá trình sinh sản và phát triển của tế bào do
vậy có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình tăng trưởng
của cơ thế. Ngoài vai trò làm tăng khả năng miễn dịch và là vi chất
có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp protein đối với cơ thể.
Kẽm còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của hệ
tiêu hóa và tăng cường quá trình chuyển hóa nhất là đối với trẻ bị
SDD, giúp cải thiện chiều cao của trẻ thấp còi. Tỷ lệ trẻ trong năm
đầu tiên của cuộc đời bị thiếu máu do thiếu sắt vẫn còn ở mức rất
cao tới 60-80% đặc biệt những trẻ đẻ thiếu cân tỷ lệ này còn cao
hơn. Tỷ lệ thiếu Kẽm, Selenium, Magnesium, và Đồng là 86,9%,
62,3%, 51,9%, và 1,7%, theo thứ tự. Mặt khác 55,6% trẻ bị thiếu
máu và 11,3% số trẻ bị thiếu vitamin A. Thiếu đồng thời từ 2 vi chất
dinh dưỡng trở lên chiếm tới 79,4% trẻ.
5
1.2. Chiến lược giáo dục truyền thông, nâng cao chất lượng thức ăn
bổ sung nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh
dưỡng
WHO/WB/UNICEF/UN (2016) đều nhận đinh rằng SDD đã
tham gia vào 33% trong số khoảng 6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết
hàng năm và số tử vong này có liên quan đến thực hành nuôi dưỡng
không đúng trong năm tuổi đầu tiên do không được bú sữa mẹ hoàn
toàn trong những tháng đầu, cho ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn,
thức ăn thường là thiếu dinh dưỡng và không an toàn có liên quan đến
trình độ và hiểu biết của bà mẹ. IFPRI ước lượng sự tham gia của một
số yếu tố vào giảm tỷ lệ SDD thể thiếu cân ở các nước đang phát triển
thì riêng việc giáo dục phụ nữ đã đóng góp tới 43,01%. Do đó, việc
nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành dinh dưỡng của bà mẹ là một
trong những giải pháp cần được quan tâm. Chính vì vậy, giáo dục
truyền thông dinh dưỡng được đánh giá là giải pháp quan trọng hàng
đầu trong việc nâng cao kiến thức, thay đổi hành vi của cộng đồng,
của bà mẹ, đặc biệt đối với việc đẩy mạnh nuôi con bằng sữa mẹ. Để
cải thiện tình trạng dinh dưỡng, đặc biệt giảm tỷ lệ thấp còi của trẻ
dưới 2 tuổi, nhiều nghiên cứu đã can thiệp tới thực hành nuôi dưỡng
trẻ nhỏ trong những năm đầu đời. Đối với Việt Nam, giáo dục dinh
dưỡng (GDDD) và hướng dẫn ăn uống hợp lý cần phải được đẩy
mạnh hơn nữa song song với các giải pháp khác.
Cải thiện chất lượng thức ăn bổ sung: Thời kỳ bắt đầu cho trẻ
ĂBS đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa nhất đối với TTDD của trẻ nếu
cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, hoặc bữa ăn bổ sung của
trẻ không đủ về số lượng và không đảm bảo chất lượng. Thức ăn bổ
sung nên cung cấp đầy đủ năng lượng, protein và các yếu tố vi lượng
để bù đắp sự thiếu hụt về năng lượng và dinh dưỡng của trẻ, và cùng
với sữa mẹ nó đáp ứng tất cả nhu cầu của trẻ. Các thức ăn từ thịt và cá
là nguồn thực phẩm tốt cho việc cung cấp protein, sắt và kẽm. Gan
6
cung cấp nhiều vitamin A và acid folic. Lòng đỏ trứng cũng cung cấp
nhiều protein và vitamin A. Các loại đậu đỗ có nhiều protein và một số
sắt. Các loại rau xanh, hoa quả, đặc biệt là cam quít, cung cấp nhiều
vitamin C. Các loại rau, quả có màu da cam như cà-rốt, bí ngô, xoài, đu
đủ rất giầu vitamin A và cả vitamin C. Dầu, mỡ cũng là những thực
phẩm rất thiết yếu cung cấp năng lượng và chất béo cho nhu cầu phát
triển của trẻ. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, nhiều
nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra kết quả tương tự về thực hành ăn
bổ sung của trẻ 6 - 23 tháng tuổi. Nhiều gia đình trẻ đã không thực hiện
đúng quy cách cho trẻ ăn bổ sung cả về thời điểm cho ăn bổ sung, số
lượng và chất lượng bữa ăn bổ sung.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn: Nghiên cứu mô tả và
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu: tại 4 xã: Thượng Nông, Dậu Dương,
Thanh Uyên và Tam Cường Huyện Tam Nông, Tỉnh Phú Thọ.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2012 đến tháng 6/2018.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ trẻ từ 6 - 23 tháng tuổi đủ điều kiện tham gia nghiên
cứu và các bà mẹ của những trẻ trên.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho Nghiên cứu can thiệp: Các
cặp bà mẹ và trẻ trong độ tuổi 6-23 tháng tuổi được chọn từ nghiên
cứu mô tả và đáp ứng những tiêu chuẩn: Trẻ có nguy cơ SDD thấp còi
và SDD thấp còi (-3SD < HAZ < -1SD; Không mắc các bệnh dị tật
bẩm sinh có ảnh hưởng đến nhân trắc và sinh hóa máu; Không mắc
7
các bệnh mạn tính, nhiễm khuẩn cấp, không bị thiếu máu nặng và rất
nặng (Hb từ <70g/L), không thiếu vitamin A mức độ nặng (retinol
<0,35 µmol/L); không nhiễm khuẩn tại thời điểm nghiên cứu sàng
lọc; Bà mẹ tự nguyện tham gia nghiên cứu và ký vào giấy đăng ký
tình nguyện tham gia nghiên cứu.
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 1:
p(1 p )
n Z (12 / 2)
e2
Trong đó: Z2(1–α /2) = 1,962 (Với độ tin cậy 95%); e = 0,05
(Độ chính xác tuyệt đối); p = 30,8% (Tỷ lệ SDD thấp còi của tỉnh Phú
Thọ năm 2010). Tính được cỡ mẫu tối thiểu là 327 trẻ, cộng thêm
10% có thể từ chối tham gia nghiên cỡ mẫu là 360 trẻ. Thực tế đã
điều tra được 398 đối tượng.
Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 2:
Trong đó: = 1,96; = 0,84 (lực mẫu 80%); : là độ dao động (SD)
uớc tính của giá trị 1-2. : độ chênh lệch mong muốn sau can thiệp
giữa 2 nhóm. Sau tính toán cỡ mẫu nhân trắc: tối thiểu cho mỗi nhóm
là 71 trẻ + 5% bỏ cuộc = 75 trẻ; như vậy 2 nhóm sẽ là 150 trẻ. Cỡ
mẫu cho xét nghiệm tối thiểu 136 trẻ cho 2 nhóm.
Cỡ mẫu điều tra khẩu phần:
Trong đó : độ lêch chuẩn của nhiệt lượng trung bình ăn
khoảng 300kcal; N: tổng số người tham gia điều tra khoảng 300; e:
8
sai số cho phép khoảng 70kcal. Như vậy mỗi nhóm nghiên cứu sẽ hỏi
59 khẩu phần x 2 nhóm = 118 khẩu phần.
Cỡ mẫu chung cho nghiên cứu: Vì cỡ mẫu của nhân trắc là cao
nhất (150 trẻ) nên sẽ sử dụng cỡ mẫu này cho tất cả các chỉ tiêu khác.
2.4.2. Cách chọn mẫu
Giai đoạn 1: cho nghiên cứu mô tả chọn huyện có chủ đích,
huyện Tam Nông là huyện nghèo, nơi có tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD,
đặc biệt SDD thể thấp còi cao hơn trung bình của toàn quốc năm
2010. Đối tượng được chọn dựa vào tiêu chuẩn chọn mẫu đã nêu trên.
Giai đoạn 2: cho nghiên cứu can thiệp từ kết quả nghiên cứu
sàng lọc ở giai đoạn 1, 160 cặp mẹ - con đủ tiêu chuẩn đã được chọn lựa và
đồng ý tham gia vào nghiên cứu khi bắt đầu can thiệp.
2.5. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu
2.5.1. Công cụ thu thập thông tin
- Phiếu điều tra bao gồm các nội dung: cân nặng, chiều cao của
trẻ, kiến thức thực hành chăm sóc dinh dưỡng trẻ của bà mẹ.
- Phiếu hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua, Album ảnh thực phẩm,
dụng cụ cho trẻ ăn và cân thực phẩm (Aanonsen, độ chính xác 5g).
- Cân điện tử Tanita BCF 541 với độ chính xác 0,1kg.
- Thước đo chiều dài nằm: Sử dụng thước gỗ UNICEF với độ
chính xác 0,1cm.
- Dụng cụ xét nghiệm Hemoglobin và định lượng Retinol huyết
thanh, Kẽm huyết thanh.
2.5.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Phỏng vấn thông tin chung và kiến thức thực hành dinh dưỡng
của các bà mẹ: các thông tin liên quan.
- Phỏng vấn về khẩu phần: phương pháp hỏi ghi 24 giờ qua:
- Thu thập thông tin về nhân trắc: theo WHO 2006.
- Sinh hóa: Thực hiện tại Khoa Vi chất, Viện Dinh dưỡng.
9
Hemoglobin máu: Xét nghiệm hemoglobin bằng phương pháp
Cyanmethemoglobin. Trẻ có nồng độ Hemoglobin trong máu <
110g/L được xác định là thiếu máu.
Retinol huyết thanh: được phân tích bằng kỹ thuật Sắc kí lỏng
cao áp HPLC (LC 10 ADVP, Shimadzu, Nhật bản) theo hướng dẫn
của WHO. Trẻ có nồng độ Retinol trong máu < 0,7 μmol/L được xác
định là thiếu Vitamin A tiền lâm sàng.
Kẽm huyết thanh: được phân tích bằng phương pháp quang phổ
hấp thụ nguyên tử dùng ngọn lửa (AAS) tại bước sóng 213,9 nm Trẻ
có nồng độ Kẽm huyết thanh < 9,9 μmol/L được xác định là thiếu
Kẽm.
2.5.3. Xử lý số liệu: bằng phần mềm Stata 10.0 với các test thống kê y
học thông thường.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 3.4. Tỷ lệ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo WHO
Các chỉ số n %
Trẻ được bú mẹ 24 giờ qua tại thời điểm
373 93,7
điều tra
Bú sớm trong 1h đầu sau sinh 189 47,5
Bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng 106 26,6
Ăn/uống trước khi Không 137 34,4
Thức ăn khác 185 46,5
bú mẹ Bú bình 76 19,1
Bú mẹ đến 2 tuổi 49 12,3
Bú mẹ đến 1 tuổi 221 55,5
Tuổi TB cai sữa (tháng) 14,9 ± 3,9
Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ tại thời điểm điều
tra là khá cao (93,7%), chỉ có 47,5% trẻ được bú mẹ trong 1 giờ đầu
sau sinh và chỉ có 26,6% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
10
Tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 1 tuổi chỉ đạt 55,5% và chỉ còn có 12,3% trẻ
được bú mẹ đến 2 tuổi.
Bảng 3.5. Tỷ lệ thực hành cho trẻ ăn bổ sung
Các chỉ số n %
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 212 53,3
Tần suất (số lần ăn) tối thiểu 387 97,2
Sự đa dạng thực phẩm tối thiểu (≥4 nhóm thực phẩm) 213 53,5
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 251 63,1
Tần suất tiêu thụ Gan & Cá trong tuần (≥5 lần) 114 28,6
Bảng 3.5 cho thấy tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn tần suất (số lần ăn) tối thiểu
khá cao (97,2%), trong khi đó tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn bữa ăn đa dạng
thực phẩm tối thiểu là 53,5%. Tỷ lệ trẻ được tiêu thụ thực phẩm giàu
sắt là 63,1% nhưng tỷ lệ trẻ được tiêu thụ Gan và Cá là 2 thực phẩm
giàu sắt sẵn có ở địa phương mới chỉ có 28,6%.
Bảng 3.8. Đặc điểm nhân trắc của hai nhóm trước can
thiệp
Nhóm chứng Nhóm can thiệp
Các chỉ số p
(n=78) (n=76)
Cân nặng ( X ± SD)
9,3 ± 1,3 9,6 ± 1,5 >0,05
(kg)a
Chiều cao ( X ± SD)
75,6 ± 5,2 75,4 ± 5,4 >0,05
(cm)a
SDD CN/T n (%)b 12 (15,4) 15 (19,7) >0,05
SDD CC/T n (%)b 28 (35,9) 24 (31,6) >0,05
SDD CN/CC n (%)b 3 (3,8) 3 (3,9) >0,05
a b 2
t-test, χ test
Kết quả từ bảng 3.8 cho thấy: Các chỉ số nhân trắc của trẻ thuộc
nhóm chứng và nhóm can thiệp không có sự khác biệt (p>0,05).
11
Với kết quả này không có ý nghĩa thống kê tại thời điểm bắt đầu
can thiệp.
Bảng 3.10. Đặc điểm một số chỉ số
sinh hoá của hai nhóm trước can thiệp
Nhóm chứng Nhóm CT
Các chỉ số p
(n=78) (n=76)
Hb (g/L)a 112,9±8,1 114,2±7,8 >0,05
Retinol huyết thanh (μmol/L)b 1,17±0,41 1,11±0,4 >0,05
Kẽm huyết thanh (μmol/L)b 9,1±2,1 9±1,6 >0,05
% thiếu máuc 32,05 32,89 >0,05
% thiếu Vitamin Ac 16,67 18,42 >0,05
% thiếu kẽmc 82,05 81,58 >0,05
(at-test, bMann-Whiteney, cχ2 test)
Kết quả từ bảng 3.10 cho thấy: Các chỉ số sinh hóa của trẻ 2 nhóm:
Nhóm chứng và nhóm can thiệp khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) tại thời điểm bắt đầu can thiệp.
Bảng 3.11. Tỷ lệ thực hành trẻ ăn bổ sung của bà mẹ hai
nhóm
nghiên cứu trước can thiệp
Nhóm chứng Nhóm can
Các chỉ sốb (n=78) thiệp (n=76) pb
n % n %
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 41 52,6 40 52,6 >0,05
Tần suất (số lần ăn) tối thiểu 77 98,7 74 97,.4 >0,05
Sự đa dạng tối thiểu (≥4 nhóm) 40 51,3 42 55,3 >0,05
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 54 69,2 57 75,0 >0,05
Tần suất tiêu thụ gan, cá (≥5 lần) 52 66,7 50 65,8 >0,05
b 2
χ test
Kết quả cho thấy: Các chỉ số đánh giá thực hành cho trẻ ăn bổ sung
của bà mẹ ở 2 nhóm nghiên cứu tại thời điểm trước can thiệp khác
nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong đó chế độ ăn chấp
12
nhận tối thiểu của 2 nhóm có tỷ lệ giống nhau (52,6%). Cũng tương tự
như vậy số lần ăn tối thiểu, tỷ lệ tiêu thụ gan và cá của nhóm chứng
tương tự nhóm nghiên cứu với p>0,05.
Bảng 3.14. Tỷ lệ % thay đổi về thực hành ăn bổ sung của trẻ
sau 6 tháng can thiệp
Nhóm Nhóm can
Các chỉ số chứng thiệp
(n=78) (n=76)
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 5,1 11,8
Tần suất bữa tối thiểu 0,0 1,3
Sự đa dạng thực phẩm tối thiểu (≥4 nhóm) 2,6 9,2
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 2,6 14,5
Tần suất tiêu thụ Gan & cá (≥5 lần) 1,3 18,4
Kết quả từ bảng 3.14 cho thấy: Sau 6 tháng can thiệp, sự cải thiện về
các tiêu chí ăn bổ sung ở nhóm can thiệp tốt hơn ở nhóm chứng.
Trong đó ở nhóm can thiệp mức độ tăng tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn
đa dạng tối thiểu khẩu phần là 11,8% trong khi ở nhóm chứng là
5,1%. Tương tự như vậy, tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn tần suất bữa ăn tối
thiểu, sự đa dạng tối thiểu hay được tiêu thụ thực phẩm giàu sắt của
nhóm can thiệp đều cao hơn nhóm chứng. Đặc biệt là sự thay đổi về
tỷ lệ sử dụng Gan & Cá của nhóm can thiệp tăng 18,4%, trong khi
đó tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 1,3%.
13
Bảng 3.20. Hiệu quả trên chỉ số nhân trắc sau can thiệp
theo nhóm nghiên cứu
Nhóm chứng Nhóm CT p
Các chỉ số
(n=78) (n=76) (t-test)
Cân nặng (kg, X ±SD)
T0 9,23±1,07 9,22±1,25 >0,05
T6 10,22±0,94 10,74±1,18 <0,05
T6-T0 0,98±0,22 1,52±0,25 <0,05
Chiều cao (cm, X ±SD)
T0 75,76±5,23 75,43±5,4 >0,05
T6 80,12±5,24 80,44±5,65 <0,05
T6-T0 4,36±0,36 5,01±0,41 <0,05
Z-Score CN/T ( X ±SD)
T0 -1,13±0,93 -1,29±1,03 >0,05
T6 -1,16±0,65 -0,99±0,86 >0,05
T6-T0 -0,03±0,16 0,3±0,18 <0,01
Z-Score CC/T( X ±SD)
T0 -1,48±1,1 -1,51±1,2 >0,05
T6 -1,52±0,9 -1,33±0,94 >0,05
T6-T0 -0,04±0,17 0,18±0,19 <0,01
Z-Score CN/CC ( X ±SD)
T0 -0,59±0,93 -0,62±0,98 >0,05
T6 -0,5±0,7 -0,55±0,96 >0,05
T6-T0 0,09±0,21 0,07±0,24 >0,05
Kết quả từ bảng 3.20 cho thấy: Tất cả các giá trị trung bình của chỉ số
nhân trắc tại thời điểm trước can thiệp tương tự nhau (p>0,05) nhưng
sau 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp cao hơn rõ rệt so với nhóm đối
14
chứng ở các chỉ số nhân trắc, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p< 0,05) trừ chỉ số CN/CC. Trong đó: Chỉ số cân nặng: Tại thời điểm
6 tháng và sau 6 tháng can thiệp, số trung bình cân nặng của nhóm
can thiệp cao hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
Tại thời điểm 6 tháng cân nặng trung bình nhóm can thiệp là 10,74kg
so với nhóm đối chứng là 10,22kg, khác biệt có ý nghĩa thống kê với
(p<0,05). Sau 6 tháng can thiệp, cân nặng trung bình nhóm can thiệp
tăng lên là 1,52kg so với nhóm đối chứng là 0,98kg, khác biệt có ý
nghĩa thống kê với (p<0,05). Ở các chỉ số nhân trắc khác như trị giá
trung bình chiều cao, Z – Score CN/T, Z – Score CC/T cũng có những
nhận xét tương tự.
Bảng 3.22. Sự thay đổi nồng độ Hb, retinol và kẽm huyết
thanh
sau 6 tháng can thiệp
Nhóm chứng Nhóm CT p
Thời điểm
n=78 n=76 (t-test)
Hb trung bình ( X ±SD) g/L
T0 112,93±8,08 114,16±7,83 >0,05
T6 115,63±9,86 120,4±9,73 <0,05
T6-T0 2,94±2,51 6,23±2,61 <0,05
Retinol trung bình ( X ±SD) μmol/L
T0 1,17±0,41 1,11±0,4 >0,05
T6 1,23±0,4 1,38±0,36 <0,05
T6-T0 0,07±0,62 0,27±0,51 <0,05
Kẽm huyết thanh trung bình ( X ±SD) μmol/L
T0 9,16±2,05 9±1,6 >0,05
T6 9,8±1,91 10,38±1,58 <0,05
T6-T0 0,66±2,86 1,38±2,3 >0,05
15
Kết quả từ bảng 3.24 cho thấy: Hiệu quả của can thiệp đối với hàm
lượng trung bình của: Hb, retinol và kẽm huyết thanh tại thời điểm
trước can thiệp của 2 nhóm nghiên cứu tương tự nhau (p>0,05). Sau 6
tháng can thiệp, nhóm can thiệp tăng cao hơn so với nhóm đối chứng
có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Trong đó: Mức tăng Hb trung bình của
trẻ nhóm can thiệp là 6,23±2,61 g/L cao hơn nhóm chứng (2,94±2,51
g/L) có ý nghĩa thống kê. Mức tăng Retinol huyết thanh trung bình của
trẻ em nhóm can thiệp là 0,27±0,51 μmol/L cao hơn nhóm chứng
(0,07±0,62 μmol/L) có ý nghĩa thống kê. Mức tăng Kẽm huyết thanh
trung bình của trẻ em nhóm nhóm can thiệp là 1,38±2,3 μmol/L cao hơn
chứng (0,66±2,86 μmol/L) có ý nghĩa thống kê.
Chương 4
BÀN LUẬN
Các kết quả về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ
tham gia nghiên cứu ở Tam Nông, Phú Thọ cho thấy hầu hết đều thấp
hơn so với mặt bằng chung của tỉnh. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong
nghiên cứu chỉ là 93,7% so với 99,8% trên toàn tỉnh. Tỷ lệ bú sớm
trong 1 giờ đầu chỉ là 47,5% so với 73,3% và tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu cũng chỉ đạt 26,6% so với 43,2% (bảng 3.4). Với
các chỉ tiêu dành cho nhóm trẻ lớn hơn tỷ lệ này cũng thấp hơn đáng
kể. Tỷ lệ bú mẹ đến 1 tuổi trong nghiên cứu chỉ là 55,5% trong khi
trên toàn tỉnh là 96,9%, tỷ lệ bú mẹ đến 2 tuổi trong nghiên cứu là
12,3% trong khi trên toàn tỉnh là 41% (bảng 3.4). Các tỷ lệ bú mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu và bú mẹ đến 1 tuổi đều thấp hơn so với
nghiên cứu của Bùi Thị Phương năm 2011 với các tỷ lệ tương ứng là
16
38,6% và 87,5%. Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ trẻ được
bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 26,6%, trước khi được cho bú
lần đầu tiên chỉ có 34,4% trẻ thực sự không sử dụng thực phẩm –
nước uống gì khác, tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 1 tuổi là 55,5% và chỉ có
12,3% số trẻ được tiếp tục bú mẹ đến 2 tuổi (bảng 3.4). Kết quả trong
nghiên cứu cũng thấp hơn so với những phát hiện trong cuộc khảo sát
của A&T, tuy vậy lại khá tương đồng với những phát hiện về nuôi
con bằng sữa mẹ trong cuộc khảo sát MICS5 trên quy mô toàn quốc
năm 2014. Cụ thể, tỷ lệ trẻ đã từng được bú mẹ trong nghiên cứu của
A&T là 99,5%, con số này trong MICS5 là 96,9%. Điều tương tự
cũng được thể hiện với tỷ lệ trẻ được bú sớm sau sinh khi con số này
của A&T là 50,5%, của MICS5 chỉ là 26,5%. Cũng như vậy đối với
tỷ lệ trẻ bú mẹ đến 1 tuổi, tương ứng của A&T và MICS5 là 79,5%,
và 65,6% và của chúng tôi là 55,5% (bảng 3.4). Tỷ lệ bú mẹ đến 2
tuổi trong nghiên cứu của MICS5 đã cao hơn (21,8%) so với nghiên
cứu của A&T (18,2%) và cùng cao hơn nghiên cứu của chúng tôi
(12,3%) (bảng 3.4).
4.1. Thực hành ăn bổ sung:
Thực hành ăn bổ sung cho trẻ của các bà mẹ vẫn chưa đúng
theo như khuyến cáo. Một phát hiện đáng chú ý là sự thay đổi lớn
trong khẩu phần ăn trên các nhóm tuổi khác nhau mà được cải thiện
theo thời gian. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng nhóm
trẻ em 6-11 tháng tuổi có tỷ lệ nhận được thực phẩm từ 4 nhóm cơ
bản và 7 loại thực phẩm theo khuyến nghị của WHO là thấp nhất.
Nhóm tuổi này cũng ít có khả năng có thể đáp ứng các tiêu chí về tần
số bữa ăn tối thiểu, bữa ăn đa dạng và tiêu chuẩn chế độ ăn uống có
thể chấp nhận so với trẻ lớn hơn (12-23 tháng). Điều này cho thấy
17
rằng trẻ em 6-11 tháng còn có nguy cơ SDD và thiếu vi chất dinh
dưỡng cao hơn những nhóm còn lại. Tuy thực hành nuôi con bằng sữa
mẹ không tốt như trên bình diện toàn tỉnh, nhưng những bà mẹ tại địa
phương nghiên cứu lại thực hành cho trẻ ăn bổ sung tốt hơn so với
mặt bằng chung. Tỷ lệ trẻ ăn đủ tần suất bữa tối thiểu trong nghiên
cứu đạt 97,2% (bảng 3.5), trong khi đó toàn tỉnh Phú Thọ chỉ đạt
76,3%. Tỷ lệ trẻ ăn đa dạng thực phẩm là thấp hơn một chút (53,5%
và 58,9%), trong khi đó tỷ lệ trẻ được ăn thực phẩm giàu sắt lại cao
hơn là 63,1% so với 58,3% toàn tỉnh.
Về số bữa nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ được ăn đủ bữa một
ngày trong nghiên cứu của chúng tôi có cao hơn so với MICS5
(90,5%) và A&T (94,4%). Tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn bữa ăn đa dạng
thực phẩm tối thiểu là 53,5% (bảng 3.5) thấp hơn rõ rệt so với MICS5
(76,9%) và A&T (82,6%). Có lẽ chính vì vậy mà tỷ lệ trẻ đạt tiêu trí
bữa ăn chấp nhận tối thiểu của chúng tôi thấp hơn đáng kể so với
MICS5 và khảo sát của A&T (với các tỷ lệ lần lượt là 53,3%, 64% và
70,9%). Tỷ lệ trẻ được tiêu thụ thực phẩm giàu sắt trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ khoảng 63% (bảng 3.5), thấp hơn khá nhiều so với
mức khoảng 71% theo khảo sát của A&T.
Bảng 3.8 cho thấy các chỉ số nhân trắc của trẻ thuộc nhóm
chứng và nhóm can thiệp khác nhau không có ý nghĩa thống kê tại
thời điểm bắt đầu can thiệp.
Bảng 3.10 cho thấy các chỉ số sinh hóa của trẻ 2 nhóm: Nhóm
chứng và nhóm can thiệp khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) tại thời điểm bắt đầu can thiệp.
Điều tương tự cũng xảy ra với các chỉ số về thực hành ăn bổ sung
của trẻ. Không có sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê trên các chỉ số
18
đánh giá thực hành ăn bổ sung của trẻ giữa 2 nhóm trước thời điểm can
thiệp (bảng 3.11).
4.2. Hiệu quả can thiệp của truyền thông giáo dục dinh dưỡng:
Nghiên cứu can thiệp được tiến hành trên 160 trẻ có nguy cơ
SDD thấp còi hoặc thấp còi (HAZ<-1) được phát hiện từ 398 trong
nghiên cứu sàng lọc. Kết thúc nghiên cứu có 6 trẻ bỏ cuộc, còn 154 trẻ,
76 trẻ thuộc nhóm can thiệp và 78 trẻ thuộc nhóm chứng. Sau can
thiệp, có sự thay đổi rõ rệt về thực hành nuổi trẻ ở nhóm can thiệp so
với nhóm chứng. Kết quả từ bảng 3.14 cho thấy sau 6 tháng can thiệp,
tại nhóm chứng mức độ gia tăng tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn đa dạng tối
thiểu khẩu phần chỉ là 5,1% trong khi đó con số này ở nhóm can thiệp
là 11,8%. Như vậy sự thay đổi tại nhóm can thiệp là tốt hơn nhóm
chứng. Điều tương tự cũng xảy ra với tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn tần
suất bữa ăn tối thiểu, sự đa dạng tối thiểu hay chỉ tiêu được tiêu thụ
thực phẩm giàu sắt và vitamin A. Đặc biệt là sự thay đổi về tỷ lệ sử
dụng Gan & cá của nhóm can thiệp tăng 18,4%, trong khi đó tỷ lệ này
ở nhóm chứng lại giảm 1,3%.
4.2.1. Hiệu quả với chỉ tiêu cân nặng:
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau can thiệp (T6), mức tăng cân của
nhóm chứng là 0,98±0,22 kg và mức tăng cân của nhóm can thiệp là
1,52±0,25 kg (bảng 3.20). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Z-Score
trung bình chỉ số cân nặng theo tuổi của nhóm chứng giảm (-0,03±0,16),
trong khi chỉ số này của nhóm can thiệp lại tăng (0,3±0,18) (bảng 3.20).
Kết quả ở biểu đồ 3.3 cũng cho thấy sau can thiệp tỷ lệ SDD nhẹ cân của
nhóm chứng tăng 0,2% trong khi tỷ lệ này của nhóm can thiệp giảm
6,54%. Bảng 3.20 cũng cho chúng ta thấy mức tăng cân của nhóm can
19
thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, và tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân của nhóm can thiệp giảm nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng.
Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng sau 6 tháng can thiệp,
nhóm can thiệp đã có những thay đổi tốt hơn nhóm chứng về chỉ số
cân nặng theo tuổi. Điều này cũng tương tự như nhiều nghiên cứu bổ
sung vi chất khác cho trẻ em trong độ tuổi từ 6-36 tháng tuổi. Tuy
vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi không trực tiếp cấp phát sản
phẩm cho trẻ mà tăng cường kiến thức cho bà mẹ, từ đó làm thay đổi
hành vi chăm sóc trẻ của bà mẹ dẫn tới thay đổi tình trạng dinh dưỡng
của trẻ.
4.2.2. Hiệu quả với chỉ tiêu chiều cao
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Z-Score trung bình chỉ số
chiều cao theo tuổi của nhóm chứng giảm (-0,04±0,17), trong khi chỉ
số này của nhóm can thiệp lại tăng (0,18±0,19) (bảng 3.20). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy sau can thiệp tỷ lệ SDD thấp
còi của nhóm chứng tăng 0,46% trong khi tỷ lệ này của nhóm can
thiệp giảm 6,58%. Bảng 3.20 cũng cho chúng ta thấy mức tăng
chiều cao của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng, và tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của nhóm can thiệp giảm
nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Như vậy có thể
kết luận rằng sau 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp đã có những thay
đổi tốt hơn nhóm chứng về chỉ số chiều cao theo tuổi. Điều này cũng
tương tự như nhiều nghiên cứu bổ sung vi chất khác cho trẻ em trong
độ tuổi từ 6-36 tháng tuổi. Tuy vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi
không trực tiếp cấp phát sản phẩm cho trẻ mà tăng cường kiến thức
cho bà mẹ thông qua mô hình Truyền thông và thực phẩm sẵn có cụ
MỞ ĐẦU
Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), năm 2013 trong
nhóm các nước đang phát triển có khoảng 195 triệu trẻ em dưới 5 tuổi
bị SDD thấp còi – chiều cao theo tuổi thấp (chiếm khoảng 30%), 129
triệu trẻ SDD nhẹ cân – cân nặng theo tuổi thấp (chiếm 25%) và 67
triệu trẻ bị SDD gầy còm – cân nặng/chiều cao thấp (13%) và khoảng
20 triệu trẻ sơ sinh có cân nặng thấp dưới 2500g (15%). Gần đây nhất,
theo báo cáo của UNICEF/WHO/WB (2018) cho biết trên thế giới
vẫn còn 151 triệu trẻ bị thấp còi (22,2%) bên cạnh 51 triệu trẻ SDD
cấp tính (wasted; 7,5%) và 38 triệu trẻ thừa cân/béo phì (5,6%); riêng
châu Á chiếm quá nửa các con số này (83,6 triệu; 35 triệu và 17,5
triệu; tương ứng).
Theo số liệu thống kê của Viện Dinh dưỡng quốc gia, ở nước ta
tuy tỷ lệ SDD trẻ em dưới 5 tuổi đã giảm nhiều: năm 1985 tỷ lệ SDD
thể nhẹ cân là 51,5%, thấp còi 59,7%, gầy còm 7,0%. Đến năm 2013
tỷ lệ SDD thể nhẹ cân giảm xuống còn 15,3%, gầy còm 6,6%, nhưng
tỷ lệ SDD thấp còi vẫn còn 25,9%, con số này vẫn xấp xỉ ở mức cao
theo phân loại của WHO và vào năm 2014, tỷ lệ SDD thấp còi ở trẻ
em dưới 5 tuổi trên toàn quốc đã giảm xuống còn 24,9%; tuy nhiên tỷ
lệ này ở nhiều tỉnh thành trong cả nước còn cao trên 30%, đặc biệt các
tỉnh ở vùng Tây Nguyên và vùng núi phía Bắc. Chính vì vậy, chiến
lược quốc gia năm 2010-2020 và tầm nhìn 2030 đã đặt mục tiêu giảm
tỷ lệ SDD thấp còi xuống còn 23% vào năm 2020 và xác định can
thiệp hiệu quả nhất với SDD thấp còi phải có tính dự phòng, toàn
diện, trong đó cải thiện về thực hành nuôi dưỡng trẻ nhỏ (bao gồm
nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung) được coi là những can thiệp cần
được ưu tiên. Trong đó, truyền thông giáo dục dinh dưỡng, thúc đẩy
sử dụng nguồn thực phẩm tại chỗ là hoạt động trọng tâm và là điểm
nhấn mạnh, nhưng cần được thực hiện theo đặc thù của vùng địa lý,
dân tộc và dựa vào các bằng chứng hoặc nghiên cứu về dinh dưỡng và
tập quán dinh dưỡng của từng địa phương.
2
Tại Việt Nam, cũng đã có một số nghiên cứu can thiệp dinh
dưỡng trong thời kì bà mẹ mang thai và 2 năm đầu đời của trẻ thông
qua giáo dục truyền thông được ghi nhận có hiệu quả cải thiện tình
trạng thấp còi của trẻ ở một số khu vực. Tuy nhiên chưa có nhiều
nghiên cứu can thiệp ở những vùng trung du, miền núi nghèo nhằm
hướng dẫn cộng đồng biết và sử dụng thực phẩm giàu vi chất dinh
dưỡng sẵn có tại chỗ để cải thiện tình trạng thấp còi ở trẻ nhỏ.
Tam Nông là một trong những huyện nghèo của tỉnh Phú Thọ,
kinh tế phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp thuộc khu vực các tỉnh trung
du miền núi phía Bắc, đề tài “Hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh
dưỡng sử dụng thực phẩm giàu vi chất sẵn có tại địa phương đến tình
trạng dinh dưỡng của trẻ từ 6-23 tháng tuổi tại một huyện trung du phía
Bắc” đã được thực hiện; góp phần vào các giải pháp phòng chống SDD
thấp còi, cải thiện tình trạng vi chất dinh dưỡng của trẻ ở địa phương này
cũng như những khu vực có điều kiện tương tự.
Mục tiêu nghiên cứu:
1. Mô tả thực trạng thực hành nuôi dưỡng trẻ của bà mẹ và tình trạng dinh
dưỡng của trẻ 6 – 23 tháng tuổi tại huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ năm
2012.
2. Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng đến thực hành
chăm sóc trẻ của bà mẹ có con 6 – 23 tháng tuổi thấp còi và có nguy cơ
thấp còi tại 2 xã can thiệp.
3. Đánh giá hiệu quả của truyền thông giáo dục dinh dưỡng đến tình trạng
dinh dưỡng, tình trạng vitamin A, tình trạng kẽm và thiếu máu của trẻ 6 –
23 tháng tuổi thấp còi và có nguy cơ thấp còi tại 2 xã can thiệp.
Bố cục của luận án: Luận án gồm 121 trang, bố cục như sau:
Đặt vấn đề: 3 trang; Mục tiêu, giả thuyết nghiên cứu: 1 trang ;
Tổng quan: 38 trang; Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 23
trang; Kết quả nghiên cứu: 24 trang; Bàn luận: 29 trang; Kết luận và
khuyến nghị: 3 trang; Có 181 tài liệu tham khảo.
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ em dưới 5 tuổi
1.1.1. Nguyên nhân SDD thấp còi
Năm 1997, UNICEF đã xây dựng và phát triển mô hình nguyên
nhân SDD. Một số tổ chức khác cũng đã có những mô hình nguyên
nhân – hậu quả của SDD riêng hoặc phát triển mô hình mới dựa trên
mô hình của UNICEF. Nhưng mô hình của UNICEF hiện tại vẫn
đang được sử dụng rộng rãi nhất.
Nguyên nhân trực tiếp: Khẩu phần ăn thiếu về số lượng hoặc
kém về chất lượng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến SDD:
Trẻ không được bú sữa mẹ đầy đủ, cho ăn bổ sung quá sớm hoặc cho
trẻ ăn thức ăn đặc quá muộn, số lượng thức ăn không đủ, năng lượng
và protein trong khẩu phần ăn thấp. Tần suất sử dụng các thực phẩm
như thịt, cá, trứng, sữa trong bữa ăn của trẻ thấp do điều kiện kinh tế
gia đình hoặc do hiểu biết của bà mẹ về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ
còn hạn chế. SDD và bệnh nhiễm khuẩn ở trẻ em ảnh hưởng tới sự
phát triển chung của trẻ trong thời gian dài. Cùng với tiêu chảy,
nhiễm khuẩn hô hấp cấp, SDD là một trong những nguyên nhân
hàng đầu gây tử vong ở trẻ em. Nhiễm ký sinh trùng đường ruột
cũng là nguyên nhân quan trọng gây ra tình trạng SDD, thiếu máu ở
trẻ em.
Nguyên nhân tiềm tàng: Nguyên nhân sâu xa đó là sự yếu kém
trong dịch vụ chăm sóc bà mẹ, trẻ em; kiến thức của người chăm sóc
trẻ, yếu tố chăm sóc của gia đình, vấn đề nước sạch, vệ sinh môi
trường và tình trạng nhà ở không đảm bảo vệ sinh, tình trạng đói
nghèo, lạc hậu về các mặt phát triển nói chung bao gồm cả mất bình
đẳng về kinh tế.
4
Tình hình an ninh lương thực hộ gia đình
Mất an ninh thực phẩm hộ gia đình: Chính là nguyên nhân làm
cho SDD trở thành gánh nặng sức khỏe ở nhiều nước đang phát triển;
tỷ lệ SDD trước tuổi đi học chiếm 20 - 50%; khu vực Đông Nam Á có
tỷ lệ mắc khá cao (40 - 50%), tỷ lệ này tăng lên khi xảy ra nạn đói hoặc
có các tình trạng khẩn cấp như chiến tranh, bão lũ, động đất.
1.1.2. Thực trạng suy dinh dưỡng thấp còi và thiếu vi chất dinh
dưỡng tại Việt Nam
Tỷ lệ SDD thể thấp còi trẻ dưới 5 tuổi đã giảm trong vòng 10
năm từ 2000-2009 từ 36,5% xuống còn 31,9%, đặc biệt từ năm 2010,
tỷ lệ này lại có xu hướng giảm khá nhanh, xuống còn 29,3% và đến
năm 2015 còn 24,6%. Tỷ lệ SDD thấp còi mức độ vừa cũng có xu
hướng giảm dần, từ 21,5% năm 2002 còn 16,1% năm 2011. Tuy
nhiên tỷ lệ SDD thấp còi mức độ nặng lại không giảm. Thiếu vi chất
dinh dưỡng (VCDD) đặc biệt là thiếu máu và thiếu kẽm có liên quan
chặt chẽ với SDD thấp còi. Các VCDD tham gia vào hầu hết các quá
trình của cơ thể như quá trình sinh sản và phát triển của tế bào do
vậy có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới quá trình tăng trưởng
của cơ thế. Ngoài vai trò làm tăng khả năng miễn dịch và là vi chất
có vai trò quan trọng trong quá trình tổng hợp protein đối với cơ thể.
Kẽm còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của hệ
tiêu hóa và tăng cường quá trình chuyển hóa nhất là đối với trẻ bị
SDD, giúp cải thiện chiều cao của trẻ thấp còi. Tỷ lệ trẻ trong năm
đầu tiên của cuộc đời bị thiếu máu do thiếu sắt vẫn còn ở mức rất
cao tới 60-80% đặc biệt những trẻ đẻ thiếu cân tỷ lệ này còn cao
hơn. Tỷ lệ thiếu Kẽm, Selenium, Magnesium, và Đồng là 86,9%,
62,3%, 51,9%, và 1,7%, theo thứ tự. Mặt khác 55,6% trẻ bị thiếu
máu và 11,3% số trẻ bị thiếu vitamin A. Thiếu đồng thời từ 2 vi chất
dinh dưỡng trở lên chiếm tới 79,4% trẻ.
5
1.2. Chiến lược giáo dục truyền thông, nâng cao chất lượng thức ăn
bổ sung nhằm cải thiện tình trạng dinh dưỡng và thiếu vi chất dinh
dưỡng
WHO/WB/UNICEF/UN (2016) đều nhận đinh rằng SDD đã
tham gia vào 33% trong số khoảng 6 triệu trẻ em dưới 5 tuổi chết
hàng năm và số tử vong này có liên quan đến thực hành nuôi dưỡng
không đúng trong năm tuổi đầu tiên do không được bú sữa mẹ hoàn
toàn trong những tháng đầu, cho ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn,
thức ăn thường là thiếu dinh dưỡng và không an toàn có liên quan đến
trình độ và hiểu biết của bà mẹ. IFPRI ước lượng sự tham gia của một
số yếu tố vào giảm tỷ lệ SDD thể thiếu cân ở các nước đang phát triển
thì riêng việc giáo dục phụ nữ đã đóng góp tới 43,01%. Do đó, việc
nâng cao kiến thức, kỹ năng thực hành dinh dưỡng của bà mẹ là một
trong những giải pháp cần được quan tâm. Chính vì vậy, giáo dục
truyền thông dinh dưỡng được đánh giá là giải pháp quan trọng hàng
đầu trong việc nâng cao kiến thức, thay đổi hành vi của cộng đồng,
của bà mẹ, đặc biệt đối với việc đẩy mạnh nuôi con bằng sữa mẹ. Để
cải thiện tình trạng dinh dưỡng, đặc biệt giảm tỷ lệ thấp còi của trẻ
dưới 2 tuổi, nhiều nghiên cứu đã can thiệp tới thực hành nuôi dưỡng
trẻ nhỏ trong những năm đầu đời. Đối với Việt Nam, giáo dục dinh
dưỡng (GDDD) và hướng dẫn ăn uống hợp lý cần phải được đẩy
mạnh hơn nữa song song với các giải pháp khác.
Cải thiện chất lượng thức ăn bổ sung: Thời kỳ bắt đầu cho trẻ
ĂBS đến khi cai sữa là thời kỳ đe dọa nhất đối với TTDD của trẻ nếu
cho trẻ ăn bổ sung quá sớm hoặc quá muộn, hoặc bữa ăn bổ sung của
trẻ không đủ về số lượng và không đảm bảo chất lượng. Thức ăn bổ
sung nên cung cấp đầy đủ năng lượng, protein và các yếu tố vi lượng
để bù đắp sự thiếu hụt về năng lượng và dinh dưỡng của trẻ, và cùng
với sữa mẹ nó đáp ứng tất cả nhu cầu của trẻ. Các thức ăn từ thịt và cá
là nguồn thực phẩm tốt cho việc cung cấp protein, sắt và kẽm. Gan
6
cung cấp nhiều vitamin A và acid folic. Lòng đỏ trứng cũng cung cấp
nhiều protein và vitamin A. Các loại đậu đỗ có nhiều protein và một số
sắt. Các loại rau xanh, hoa quả, đặc biệt là cam quít, cung cấp nhiều
vitamin C. Các loại rau, quả có màu da cam như cà-rốt, bí ngô, xoài, đu
đủ rất giầu vitamin A và cả vitamin C. Dầu, mỡ cũng là những thực
phẩm rất thiết yếu cung cấp năng lượng và chất béo cho nhu cầu phát
triển của trẻ. Cũng như nhiều nước đang phát triển trên thế giới, nhiều
nghiên cứu tại Việt Nam cũng chỉ ra kết quả tương tự về thực hành ăn
bổ sung của trẻ 6 - 23 tháng tuổi. Nhiều gia đình trẻ đã không thực hiện
đúng quy cách cho trẻ ăn bổ sung cả về thời điểm cho ăn bổ sung, số
lượng và chất lượng bữa ăn bổ sung.
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được chia làm 2 giai đoạn: Nghiên cứu mô tả và
Nghiên cứu can thiệp cộng đồng có đối chứng.
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu: tại 4 xã: Thượng Nông, Dậu Dương,
Thanh Uyên và Tam Cường Huyện Tam Nông, Tỉnh Phú Thọ.
2.2.2. Thời gian nghiên cứu: từ tháng 11/2012 đến tháng 6/2018.
2.3. Đối tượng nghiên cứu
Toàn bộ trẻ từ 6 - 23 tháng tuổi đủ điều kiện tham gia nghiên
cứu và các bà mẹ của những trẻ trên.
Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng cho Nghiên cứu can thiệp: Các
cặp bà mẹ và trẻ trong độ tuổi 6-23 tháng tuổi được chọn từ nghiên
cứu mô tả và đáp ứng những tiêu chuẩn: Trẻ có nguy cơ SDD thấp còi
và SDD thấp còi (-3SD < HAZ < -1SD; Không mắc các bệnh dị tật
bẩm sinh có ảnh hưởng đến nhân trắc và sinh hóa máu; Không mắc
7
các bệnh mạn tính, nhiễm khuẩn cấp, không bị thiếu máu nặng và rất
nặng (Hb từ <70g/L), không thiếu vitamin A mức độ nặng (retinol
<0,35 µmol/L); không nhiễm khuẩn tại thời điểm nghiên cứu sàng
lọc; Bà mẹ tự nguyện tham gia nghiên cứu và ký vào giấy đăng ký
tình nguyện tham gia nghiên cứu.
2.4. Cỡ mẫu và phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Cỡ mẫu
Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 1:
p(1 p )
n Z (12 / 2)
e2
Trong đó: Z2(1–α /2) = 1,962 (Với độ tin cậy 95%); e = 0,05
(Độ chính xác tuyệt đối); p = 30,8% (Tỷ lệ SDD thấp còi của tỉnh Phú
Thọ năm 2010). Tính được cỡ mẫu tối thiểu là 327 trẻ, cộng thêm
10% có thể từ chối tham gia nghiên cỡ mẫu là 360 trẻ. Thực tế đã
điều tra được 398 đối tượng.
Cỡ mẫu nghiên cứu giai đoạn 2:
Trong đó: = 1,96; = 0,84 (lực mẫu 80%); : là độ dao động (SD)
uớc tính của giá trị 1-2. : độ chênh lệch mong muốn sau can thiệp
giữa 2 nhóm. Sau tính toán cỡ mẫu nhân trắc: tối thiểu cho mỗi nhóm
là 71 trẻ + 5% bỏ cuộc = 75 trẻ; như vậy 2 nhóm sẽ là 150 trẻ. Cỡ
mẫu cho xét nghiệm tối thiểu 136 trẻ cho 2 nhóm.
Cỡ mẫu điều tra khẩu phần:
Trong đó : độ lêch chuẩn của nhiệt lượng trung bình ăn
khoảng 300kcal; N: tổng số người tham gia điều tra khoảng 300; e:
8
sai số cho phép khoảng 70kcal. Như vậy mỗi nhóm nghiên cứu sẽ hỏi
59 khẩu phần x 2 nhóm = 118 khẩu phần.
Cỡ mẫu chung cho nghiên cứu: Vì cỡ mẫu của nhân trắc là cao
nhất (150 trẻ) nên sẽ sử dụng cỡ mẫu này cho tất cả các chỉ tiêu khác.
2.4.2. Cách chọn mẫu
Giai đoạn 1: cho nghiên cứu mô tả chọn huyện có chủ đích,
huyện Tam Nông là huyện nghèo, nơi có tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi SDD,
đặc biệt SDD thể thấp còi cao hơn trung bình của toàn quốc năm
2010. Đối tượng được chọn dựa vào tiêu chuẩn chọn mẫu đã nêu trên.
Giai đoạn 2: cho nghiên cứu can thiệp từ kết quả nghiên cứu
sàng lọc ở giai đoạn 1, 160 cặp mẹ - con đủ tiêu chuẩn đã được chọn lựa và
đồng ý tham gia vào nghiên cứu khi bắt đầu can thiệp.
2.5. Phương pháp và kỹ thuật thu thập số liệu
2.5.1. Công cụ thu thập thông tin
- Phiếu điều tra bao gồm các nội dung: cân nặng, chiều cao của
trẻ, kiến thức thực hành chăm sóc dinh dưỡng trẻ của bà mẹ.
- Phiếu hỏi ghi khẩu phần 24 giờ qua, Album ảnh thực phẩm,
dụng cụ cho trẻ ăn và cân thực phẩm (Aanonsen, độ chính xác 5g).
- Cân điện tử Tanita BCF 541 với độ chính xác 0,1kg.
- Thước đo chiều dài nằm: Sử dụng thước gỗ UNICEF với độ
chính xác 0,1cm.
- Dụng cụ xét nghiệm Hemoglobin và định lượng Retinol huyết
thanh, Kẽm huyết thanh.
2.5.2. Phương pháp thu thập thông tin
- Phỏng vấn thông tin chung và kiến thức thực hành dinh dưỡng
của các bà mẹ: các thông tin liên quan.
- Phỏng vấn về khẩu phần: phương pháp hỏi ghi 24 giờ qua:
- Thu thập thông tin về nhân trắc: theo WHO 2006.
- Sinh hóa: Thực hiện tại Khoa Vi chất, Viện Dinh dưỡng.
9
Hemoglobin máu: Xét nghiệm hemoglobin bằng phương pháp
Cyanmethemoglobin. Trẻ có nồng độ Hemoglobin trong máu <
110g/L được xác định là thiếu máu.
Retinol huyết thanh: được phân tích bằng kỹ thuật Sắc kí lỏng
cao áp HPLC (LC 10 ADVP, Shimadzu, Nhật bản) theo hướng dẫn
của WHO. Trẻ có nồng độ Retinol trong máu < 0,7 μmol/L được xác
định là thiếu Vitamin A tiền lâm sàng.
Kẽm huyết thanh: được phân tích bằng phương pháp quang phổ
hấp thụ nguyên tử dùng ngọn lửa (AAS) tại bước sóng 213,9 nm Trẻ
có nồng độ Kẽm huyết thanh < 9,9 μmol/L được xác định là thiếu
Kẽm.
2.5.3. Xử lý số liệu: bằng phần mềm Stata 10.0 với các test thống kê y
học thông thường.
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 3.4. Tỷ lệ thực hành nuôi con bằng sữa mẹ theo WHO
Các chỉ số n %
Trẻ được bú mẹ 24 giờ qua tại thời điểm
373 93,7
điều tra
Bú sớm trong 1h đầu sau sinh 189 47,5
Bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng 106 26,6
Ăn/uống trước khi Không 137 34,4
Thức ăn khác 185 46,5
bú mẹ Bú bình 76 19,1
Bú mẹ đến 2 tuổi 49 12,3
Bú mẹ đến 1 tuổi 221 55,5
Tuổi TB cai sữa (tháng) 14,9 ± 3,9
Bảng 3.4 cho thấy tỷ lệ trẻ được nuôi bằng sữa mẹ tại thời điểm điều
tra là khá cao (93,7%), chỉ có 47,5% trẻ được bú mẹ trong 1 giờ đầu
sau sinh và chỉ có 26,6% trẻ được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu.
10
Tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 1 tuổi chỉ đạt 55,5% và chỉ còn có 12,3% trẻ
được bú mẹ đến 2 tuổi.
Bảng 3.5. Tỷ lệ thực hành cho trẻ ăn bổ sung
Các chỉ số n %
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 212 53,3
Tần suất (số lần ăn) tối thiểu 387 97,2
Sự đa dạng thực phẩm tối thiểu (≥4 nhóm thực phẩm) 213 53,5
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 251 63,1
Tần suất tiêu thụ Gan & Cá trong tuần (≥5 lần) 114 28,6
Bảng 3.5 cho thấy tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn tần suất (số lần ăn) tối thiểu
khá cao (97,2%), trong khi đó tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn bữa ăn đa dạng
thực phẩm tối thiểu là 53,5%. Tỷ lệ trẻ được tiêu thụ thực phẩm giàu
sắt là 63,1% nhưng tỷ lệ trẻ được tiêu thụ Gan và Cá là 2 thực phẩm
giàu sắt sẵn có ở địa phương mới chỉ có 28,6%.
Bảng 3.8. Đặc điểm nhân trắc của hai nhóm trước can
thiệp
Nhóm chứng Nhóm can thiệp
Các chỉ số p
(n=78) (n=76)
Cân nặng ( X ± SD)
9,3 ± 1,3 9,6 ± 1,5 >0,05
(kg)a
Chiều cao ( X ± SD)
75,6 ± 5,2 75,4 ± 5,4 >0,05
(cm)a
SDD CN/T n (%)b 12 (15,4) 15 (19,7) >0,05
SDD CC/T n (%)b 28 (35,9) 24 (31,6) >0,05
SDD CN/CC n (%)b 3 (3,8) 3 (3,9) >0,05
a b 2
t-test, χ test
Kết quả từ bảng 3.8 cho thấy: Các chỉ số nhân trắc của trẻ thuộc
nhóm chứng và nhóm can thiệp không có sự khác biệt (p>0,05).
11
Với kết quả này không có ý nghĩa thống kê tại thời điểm bắt đầu
can thiệp.
Bảng 3.10. Đặc điểm một số chỉ số
sinh hoá của hai nhóm trước can thiệp
Nhóm chứng Nhóm CT
Các chỉ số p
(n=78) (n=76)
Hb (g/L)a 112,9±8,1 114,2±7,8 >0,05
Retinol huyết thanh (μmol/L)b 1,17±0,41 1,11±0,4 >0,05
Kẽm huyết thanh (μmol/L)b 9,1±2,1 9±1,6 >0,05
% thiếu máuc 32,05 32,89 >0,05
% thiếu Vitamin Ac 16,67 18,42 >0,05
% thiếu kẽmc 82,05 81,58 >0,05
(at-test, bMann-Whiteney, cχ2 test)
Kết quả từ bảng 3.10 cho thấy: Các chỉ số sinh hóa của trẻ 2 nhóm:
Nhóm chứng và nhóm can thiệp khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) tại thời điểm bắt đầu can thiệp.
Bảng 3.11. Tỷ lệ thực hành trẻ ăn bổ sung của bà mẹ hai
nhóm
nghiên cứu trước can thiệp
Nhóm chứng Nhóm can
Các chỉ sốb (n=78) thiệp (n=76) pb
n % n %
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 41 52,6 40 52,6 >0,05
Tần suất (số lần ăn) tối thiểu 77 98,7 74 97,.4 >0,05
Sự đa dạng tối thiểu (≥4 nhóm) 40 51,3 42 55,3 >0,05
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 54 69,2 57 75,0 >0,05
Tần suất tiêu thụ gan, cá (≥5 lần) 52 66,7 50 65,8 >0,05
b 2
χ test
Kết quả cho thấy: Các chỉ số đánh giá thực hành cho trẻ ăn bổ sung
của bà mẹ ở 2 nhóm nghiên cứu tại thời điểm trước can thiệp khác
nhau không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong đó chế độ ăn chấp
12
nhận tối thiểu của 2 nhóm có tỷ lệ giống nhau (52,6%). Cũng tương tự
như vậy số lần ăn tối thiểu, tỷ lệ tiêu thụ gan và cá của nhóm chứng
tương tự nhóm nghiên cứu với p>0,05.
Bảng 3.14. Tỷ lệ % thay đổi về thực hành ăn bổ sung của trẻ
sau 6 tháng can thiệp
Nhóm Nhóm can
Các chỉ số chứng thiệp
(n=78) (n=76)
Chế độ ăn chấp nhận tối thiểu 5,1 11,8
Tần suất bữa tối thiểu 0,0 1,3
Sự đa dạng thực phẩm tối thiểu (≥4 nhóm) 2,6 9,2
Tiêu thụ thực phẩm giàu sắt 2,6 14,5
Tần suất tiêu thụ Gan & cá (≥5 lần) 1,3 18,4
Kết quả từ bảng 3.14 cho thấy: Sau 6 tháng can thiệp, sự cải thiện về
các tiêu chí ăn bổ sung ở nhóm can thiệp tốt hơn ở nhóm chứng.
Trong đó ở nhóm can thiệp mức độ tăng tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn
đa dạng tối thiểu khẩu phần là 11,8% trong khi ở nhóm chứng là
5,1%. Tương tự như vậy, tỷ lệ trẻ đạt tiêu chuẩn tần suất bữa ăn tối
thiểu, sự đa dạng tối thiểu hay được tiêu thụ thực phẩm giàu sắt của
nhóm can thiệp đều cao hơn nhóm chứng. Đặc biệt là sự thay đổi về
tỷ lệ sử dụng Gan & Cá của nhóm can thiệp tăng 18,4%, trong khi
đó tỷ lệ này ở nhóm chứng chỉ là 1,3%.
13
Bảng 3.20. Hiệu quả trên chỉ số nhân trắc sau can thiệp
theo nhóm nghiên cứu
Nhóm chứng Nhóm CT p
Các chỉ số
(n=78) (n=76) (t-test)
Cân nặng (kg, X ±SD)
T0 9,23±1,07 9,22±1,25 >0,05
T6 10,22±0,94 10,74±1,18 <0,05
T6-T0 0,98±0,22 1,52±0,25 <0,05
Chiều cao (cm, X ±SD)
T0 75,76±5,23 75,43±5,4 >0,05
T6 80,12±5,24 80,44±5,65 <0,05
T6-T0 4,36±0,36 5,01±0,41 <0,05
Z-Score CN/T ( X ±SD)
T0 -1,13±0,93 -1,29±1,03 >0,05
T6 -1,16±0,65 -0,99±0,86 >0,05
T6-T0 -0,03±0,16 0,3±0,18 <0,01
Z-Score CC/T( X ±SD)
T0 -1,48±1,1 -1,51±1,2 >0,05
T6 -1,52±0,9 -1,33±0,94 >0,05
T6-T0 -0,04±0,17 0,18±0,19 <0,01
Z-Score CN/CC ( X ±SD)
T0 -0,59±0,93 -0,62±0,98 >0,05
T6 -0,5±0,7 -0,55±0,96 >0,05
T6-T0 0,09±0,21 0,07±0,24 >0,05
Kết quả từ bảng 3.20 cho thấy: Tất cả các giá trị trung bình của chỉ số
nhân trắc tại thời điểm trước can thiệp tương tự nhau (p>0,05) nhưng
sau 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp cao hơn rõ rệt so với nhóm đối
14
chứng ở các chỉ số nhân trắc, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
(p< 0,05) trừ chỉ số CN/CC. Trong đó: Chỉ số cân nặng: Tại thời điểm
6 tháng và sau 6 tháng can thiệp, số trung bình cân nặng của nhóm
can thiệp cao hơn so với nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
Tại thời điểm 6 tháng cân nặng trung bình nhóm can thiệp là 10,74kg
so với nhóm đối chứng là 10,22kg, khác biệt có ý nghĩa thống kê với
(p<0,05). Sau 6 tháng can thiệp, cân nặng trung bình nhóm can thiệp
tăng lên là 1,52kg so với nhóm đối chứng là 0,98kg, khác biệt có ý
nghĩa thống kê với (p<0,05). Ở các chỉ số nhân trắc khác như trị giá
trung bình chiều cao, Z – Score CN/T, Z – Score CC/T cũng có những
nhận xét tương tự.
Bảng 3.22. Sự thay đổi nồng độ Hb, retinol và kẽm huyết
thanh
sau 6 tháng can thiệp
Nhóm chứng Nhóm CT p
Thời điểm
n=78 n=76 (t-test)
Hb trung bình ( X ±SD) g/L
T0 112,93±8,08 114,16±7,83 >0,05
T6 115,63±9,86 120,4±9,73 <0,05
T6-T0 2,94±2,51 6,23±2,61 <0,05
Retinol trung bình ( X ±SD) μmol/L
T0 1,17±0,41 1,11±0,4 >0,05
T6 1,23±0,4 1,38±0,36 <0,05
T6-T0 0,07±0,62 0,27±0,51 <0,05
Kẽm huyết thanh trung bình ( X ±SD) μmol/L
T0 9,16±2,05 9±1,6 >0,05
T6 9,8±1,91 10,38±1,58 <0,05
T6-T0 0,66±2,86 1,38±2,3 >0,05
15
Kết quả từ bảng 3.24 cho thấy: Hiệu quả của can thiệp đối với hàm
lượng trung bình của: Hb, retinol và kẽm huyết thanh tại thời điểm
trước can thiệp của 2 nhóm nghiên cứu tương tự nhau (p>0,05). Sau 6
tháng can thiệp, nhóm can thiệp tăng cao hơn so với nhóm đối chứng
có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Trong đó: Mức tăng Hb trung bình của
trẻ nhóm can thiệp là 6,23±2,61 g/L cao hơn nhóm chứng (2,94±2,51
g/L) có ý nghĩa thống kê. Mức tăng Retinol huyết thanh trung bình của
trẻ em nhóm can thiệp là 0,27±0,51 μmol/L cao hơn nhóm chứng
(0,07±0,62 μmol/L) có ý nghĩa thống kê. Mức tăng Kẽm huyết thanh
trung bình của trẻ em nhóm nhóm can thiệp là 1,38±2,3 μmol/L cao hơn
chứng (0,66±2,86 μmol/L) có ý nghĩa thống kê.
Chương 4
BÀN LUẬN
Các kết quả về thực hành nuôi con bằng sữa mẹ của bà mẹ
tham gia nghiên cứu ở Tam Nông, Phú Thọ cho thấy hầu hết đều thấp
hơn so với mặt bằng chung của tỉnh. Tỷ lệ trẻ được bú mẹ trong
nghiên cứu chỉ là 93,7% so với 99,8% trên toàn tỉnh. Tỷ lệ bú sớm
trong 1 giờ đầu chỉ là 47,5% so với 73,3% và tỷ lệ bú mẹ hoàn toàn
trong 6 tháng đầu cũng chỉ đạt 26,6% so với 43,2% (bảng 3.4). Với
các chỉ tiêu dành cho nhóm trẻ lớn hơn tỷ lệ này cũng thấp hơn đáng
kể. Tỷ lệ bú mẹ đến 1 tuổi trong nghiên cứu chỉ là 55,5% trong khi
trên toàn tỉnh là 96,9%, tỷ lệ bú mẹ đến 2 tuổi trong nghiên cứu là
12,3% trong khi trên toàn tỉnh là 41% (bảng 3.4). Các tỷ lệ bú mẹ
hoàn toàn trong 6 tháng đầu và bú mẹ đến 1 tuổi đều thấp hơn so với
nghiên cứu của Bùi Thị Phương năm 2011 với các tỷ lệ tương ứng là
16
38,6% và 87,5%. Kết quả của nghiên cứu cũng cho thấy tỷ lệ trẻ được
bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu là 26,6%, trước khi được cho bú
lần đầu tiên chỉ có 34,4% trẻ thực sự không sử dụng thực phẩm –
nước uống gì khác, tỷ lệ trẻ được bú mẹ đến 1 tuổi là 55,5% và chỉ có
12,3% số trẻ được tiếp tục bú mẹ đến 2 tuổi (bảng 3.4). Kết quả trong
nghiên cứu cũng thấp hơn so với những phát hiện trong cuộc khảo sát
của A&T, tuy vậy lại khá tương đồng với những phát hiện về nuôi
con bằng sữa mẹ trong cuộc khảo sát MICS5 trên quy mô toàn quốc
năm 2014. Cụ thể, tỷ lệ trẻ đã từng được bú mẹ trong nghiên cứu của
A&T là 99,5%, con số này trong MICS5 là 96,9%. Điều tương tự
cũng được thể hiện với tỷ lệ trẻ được bú sớm sau sinh khi con số này
của A&T là 50,5%, của MICS5 chỉ là 26,5%. Cũng như vậy đối với
tỷ lệ trẻ bú mẹ đến 1 tuổi, tương ứng của A&T và MICS5 là 79,5%,
và 65,6% và của chúng tôi là 55,5% (bảng 3.4). Tỷ lệ bú mẹ đến 2
tuổi trong nghiên cứu của MICS5 đã cao hơn (21,8%) so với nghiên
cứu của A&T (18,2%) và cùng cao hơn nghiên cứu của chúng tôi
(12,3%) (bảng 3.4).
4.1. Thực hành ăn bổ sung:
Thực hành ăn bổ sung cho trẻ của các bà mẹ vẫn chưa đúng
theo như khuyến cáo. Một phát hiện đáng chú ý là sự thay đổi lớn
trong khẩu phần ăn trên các nhóm tuổi khác nhau mà được cải thiện
theo thời gian. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng phát hiện ra rằng nhóm
trẻ em 6-11 tháng tuổi có tỷ lệ nhận được thực phẩm từ 4 nhóm cơ
bản và 7 loại thực phẩm theo khuyến nghị của WHO là thấp nhất.
Nhóm tuổi này cũng ít có khả năng có thể đáp ứng các tiêu chí về tần
số bữa ăn tối thiểu, bữa ăn đa dạng và tiêu chuẩn chế độ ăn uống có
thể chấp nhận so với trẻ lớn hơn (12-23 tháng). Điều này cho thấy
17
rằng trẻ em 6-11 tháng còn có nguy cơ SDD và thiếu vi chất dinh
dưỡng cao hơn những nhóm còn lại. Tuy thực hành nuôi con bằng sữa
mẹ không tốt như trên bình diện toàn tỉnh, nhưng những bà mẹ tại địa
phương nghiên cứu lại thực hành cho trẻ ăn bổ sung tốt hơn so với
mặt bằng chung. Tỷ lệ trẻ ăn đủ tần suất bữa tối thiểu trong nghiên
cứu đạt 97,2% (bảng 3.5), trong khi đó toàn tỉnh Phú Thọ chỉ đạt
76,3%. Tỷ lệ trẻ ăn đa dạng thực phẩm là thấp hơn một chút (53,5%
và 58,9%), trong khi đó tỷ lệ trẻ được ăn thực phẩm giàu sắt lại cao
hơn là 63,1% so với 58,3% toàn tỉnh.
Về số bữa nghiên cứu cho thấy tỷ lệ trẻ được ăn đủ bữa một
ngày trong nghiên cứu của chúng tôi có cao hơn so với MICS5
(90,5%) và A&T (94,4%). Tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn bữa ăn đa dạng
thực phẩm tối thiểu là 53,5% (bảng 3.5) thấp hơn rõ rệt so với MICS5
(76,9%) và A&T (82,6%). Có lẽ chính vì vậy mà tỷ lệ trẻ đạt tiêu trí
bữa ăn chấp nhận tối thiểu của chúng tôi thấp hơn đáng kể so với
MICS5 và khảo sát của A&T (với các tỷ lệ lần lượt là 53,3%, 64% và
70,9%). Tỷ lệ trẻ được tiêu thụ thực phẩm giàu sắt trong nghiên cứu
của chúng tôi chỉ khoảng 63% (bảng 3.5), thấp hơn khá nhiều so với
mức khoảng 71% theo khảo sát của A&T.
Bảng 3.8 cho thấy các chỉ số nhân trắc của trẻ thuộc nhóm
chứng và nhóm can thiệp khác nhau không có ý nghĩa thống kê tại
thời điểm bắt đầu can thiệp.
Bảng 3.10 cho thấy các chỉ số sinh hóa của trẻ 2 nhóm: Nhóm
chứng và nhóm can thiệp khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05) tại thời điểm bắt đầu can thiệp.
Điều tương tự cũng xảy ra với các chỉ số về thực hành ăn bổ sung
của trẻ. Không có sự khác biệt nào có ý nghĩa thống kê trên các chỉ số
18
đánh giá thực hành ăn bổ sung của trẻ giữa 2 nhóm trước thời điểm can
thiệp (bảng 3.11).
4.2. Hiệu quả can thiệp của truyền thông giáo dục dinh dưỡng:
Nghiên cứu can thiệp được tiến hành trên 160 trẻ có nguy cơ
SDD thấp còi hoặc thấp còi (HAZ<-1) được phát hiện từ 398 trong
nghiên cứu sàng lọc. Kết thúc nghiên cứu có 6 trẻ bỏ cuộc, còn 154 trẻ,
76 trẻ thuộc nhóm can thiệp và 78 trẻ thuộc nhóm chứng. Sau can
thiệp, có sự thay đổi rõ rệt về thực hành nuổi trẻ ở nhóm can thiệp so
với nhóm chứng. Kết quả từ bảng 3.14 cho thấy sau 6 tháng can thiệp,
tại nhóm chứng mức độ gia tăng tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn đa dạng tối
thiểu khẩu phần chỉ là 5,1% trong khi đó con số này ở nhóm can thiệp
là 11,8%. Như vậy sự thay đổi tại nhóm can thiệp là tốt hơn nhóm
chứng. Điều tương tự cũng xảy ra với tỷ lệ trẻ em đạt tiêu chuẩn tần
suất bữa ăn tối thiểu, sự đa dạng tối thiểu hay chỉ tiêu được tiêu thụ
thực phẩm giàu sắt và vitamin A. Đặc biệt là sự thay đổi về tỷ lệ sử
dụng Gan & cá của nhóm can thiệp tăng 18,4%, trong khi đó tỷ lệ này
ở nhóm chứng lại giảm 1,3%.
4.2.1. Hiệu quả với chỉ tiêu cân nặng:
Kết quả nghiên cứu cho thấy sau can thiệp (T6), mức tăng cân của
nhóm chứng là 0,98±0,22 kg và mức tăng cân của nhóm can thiệp là
1,52±0,25 kg (bảng 3.20). Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Z-Score
trung bình chỉ số cân nặng theo tuổi của nhóm chứng giảm (-0,03±0,16),
trong khi chỉ số này của nhóm can thiệp lại tăng (0,3±0,18) (bảng 3.20).
Kết quả ở biểu đồ 3.3 cũng cho thấy sau can thiệp tỷ lệ SDD nhẹ cân của
nhóm chứng tăng 0,2% trong khi tỷ lệ này của nhóm can thiệp giảm
6,54%. Bảng 3.20 cũng cho chúng ta thấy mức tăng cân của nhóm can
19
thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng, và tỷ lệ SDD thể
nhẹ cân của nhóm can thiệp giảm nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng.
Như vậy chúng ta có thể kết luận rằng sau 6 tháng can thiệp,
nhóm can thiệp đã có những thay đổi tốt hơn nhóm chứng về chỉ số
cân nặng theo tuổi. Điều này cũng tương tự như nhiều nghiên cứu bổ
sung vi chất khác cho trẻ em trong độ tuổi từ 6-36 tháng tuổi. Tuy
vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi không trực tiếp cấp phát sản
phẩm cho trẻ mà tăng cường kiến thức cho bà mẹ, từ đó làm thay đổi
hành vi chăm sóc trẻ của bà mẹ dẫn tới thay đổi tình trạng dinh dưỡng
của trẻ.
4.2.2. Hiệu quả với chỉ tiêu chiều cao
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy Z-Score trung bình chỉ số
chiều cao theo tuổi của nhóm chứng giảm (-0,04±0,17), trong khi chỉ
số này của nhóm can thiệp lại tăng (0,18±0,19) (bảng 3.20). Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng cho thấy sau can thiệp tỷ lệ SDD thấp
còi của nhóm chứng tăng 0,46% trong khi tỷ lệ này của nhóm can
thiệp giảm 6,58%. Bảng 3.20 cũng cho chúng ta thấy mức tăng
chiều cao của nhóm can thiệp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với
nhóm chứng, và tỷ lệ SDD thể nhẹ cân của nhóm can thiệp giảm
nhiều hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Như vậy có thể
kết luận rằng sau 6 tháng can thiệp, nhóm can thiệp đã có những thay
đổi tốt hơn nhóm chứng về chỉ số chiều cao theo tuổi. Điều này cũng
tương tự như nhiều nghiên cứu bổ sung vi chất khác cho trẻ em trong
độ tuổi từ 6-36 tháng tuổi. Tuy vậy, trong nghiên cứu của chúng tôi
không trực tiếp cấp phát sản phẩm cho trẻ mà tăng cường kiến thức
cho bà mẹ thông qua mô hình Truyền thông và thực phẩm sẵn có cụ