Giải pháp nhằm tăng cường thu hút fdi vào kcn kcx

  • 37 trang
  • file .doc
A-LỜI MỞ ĐẦU
B-NỘI DUNG
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI, KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT.
I-Lý luận chung
1. Khái niệm về đầu tư:
" Đầu tư hiểu một cách khái quát theo nghĩa rộng là sự hy sinh các nguồn
lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó với kỳ vọng sẽ thu được những
kết quả, những giá trị mới lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra trong tương lai.
Nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, trí tuệ…Những
kết quả đó có thể là tài sản, tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường
sá …), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn khoa học, kĩ thuật…)…
Cùng với sự phát triển kinh tế các hình thức đầu tư cũng ngày một đa
dạng hơn. Trong một nền kinh tế đóng, nguồn vốn đầu tư để phát tiển kinh tế chỉ
có thể dựa vào nguồn vốn huy động trong nước( vốn tích luỹ từ ngân sách Nhà
nước, vốn đầu tư của doanh nghiệp, vốn tích luỹ trong dân..). Nhưng trong nền
kinh tế mở cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới thì nguồn vốn đầu
tư phát triển ngoài vốn trong nước còn có sự đóng quan trọng của nguồn vốn
nước ngoài. Sự phát tiển nhanh chóng của các nước NICs, ASEAN trong hai
thập kỷ gần đây cho thấy ý nghĩa của hoạt động thu hút và sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của các nước này. Ngay cả
đối với những nước phát triển hàng đầu thế giới như Mỹ, Nhật, Anh,
Pháp ..cũng vừa đầu tư ra nứơc ngoài vừa tranh thủ thu hút đầu tư quốc tế.
2. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài:
" Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước
ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ, cho phép
họ trực tiếp tham gia điều hành đối tượng họ bỏ vốn đầu tư, cùng các đối tác
nước sở tại chia sẻ rủi ro và lợi nhuận"
1
Về bản chất đầu tư trực tiếp nước ngoài là những hình thức xuất khẩu tư
bản, một hình thức cao hơn của xuất khẩu hàng hoá. Đây là hai hình thức được
các tập đoàn nước ngoài sử dụng triệt để trong chính sách thâm nhập và chiếm
lĩnh thị trường hiện nay.
ĐTTTNN là xu thế tất yếu, một xu thế không thể đảo ngược. Việc các
nước phát triển đầu tư ra nước ngoài trước hết vì quyền lợi của chính họ. Các
nước phát triển đàu tư ra nước ngoài để kiếm nhiều lợi nhuận hơn. Tuy nhiên
cũng phải khẳng định một điều: các nước tiếp nhận đầu tư cũng vì quyền lợi của
bản thân mình. Tóm lại đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại quyền lợi cho cả
hai bên (bên đầu tư, bên tiếp nhận đầu tư) vì vậy nó sẽ phát triển một cách bền
vững và lâu dài.
3.Tác động của FDI đối với các nước đang phát triển nói chung và của Việt
Nam nói riêng.
a) FDI bù đắp sự thiếu hụt vốn và ngoại tệ:
Đối với các nước kém phát triển để phát triển kinh tế thì việc cần phải làm là
tạo được cú huých đủ mạnh để phá vỡ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói. Tuy
nhiên để tạo được cú huých đó các nước này phải đối mặt với tình trạng thiếu
hụt vốn và kĩ thuật. Vốn là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ kĩ thuật, tăng năng xuất lao động… từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập,
tăng tích luỹ cho sự phát triển toàn xã hội. Nhưng để tạo vốn cho nền kinh tế nếu
chỉ trông chờ vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó tránh khỏi là sự tụt hậu trong
sự phát triển chung của toàn thế giới. Như vậy vốn nước ngoài sẽ là một cú
huých để đột phá "cái vòng luẩn quẩn". Trong đó FDI là một nguồn quan trọng
để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà ít gây nợ nần.
b) FDI mang lại công nghệ và trình độ kĩ thuật cao, trình độ quản lý tiên tiến
cho nước tiếp nhận vốn đầu tư.
Công nghệ mới ra đời và phát triển như vũ bão chất xám trở thành thông
số chủ yếu để tính giá thành sản phẩm và tất yếu là giá thành sản phẩm thô,
nguyên liệu sơ chế giảm một cách đáng kể. Đây là xu thế tất yếu của thời đại- xu
2
thế này đe doạ hướng xuất khẩu nguyên liệu thô và nguyên liệu sơ chế của các
nước đang phát triển. Như vậy để thoát khỏi đói nghèo không còn con đường
nào khác, chúng ta cần công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mình. Muốn thực
hiện CNH-HĐH thì điều kiện kiên quyết là phải có công nghệ. Xét về lâu dài
thì đây là một lợi ích căn bản nhất cho nước tiếp nhận đầu tư. Đứng trên giác độ
công nghệ mà nói con đường để có công nghệ nhanh nhất, tốn ít vốn nhất đồng
thời độ rủi ro thấp nhất là thông qua con đường thu hút FDI-thực hiện chuyển
giao công nghệ.
Trên thực tế FDI không chỉ thúc đẩy sự đổi mới vê công nghệ ở các nước
tiếp nhận đầu tư mà còn góp phần tăng năng suất của các yếu tố sản xuất, thay
đổi cấu thành sản phẩm và xuất khẩu, thúc đẩy phát triển các nghành nghề mới,
đặc biệt là những ngành đòi hỏi hàm lượng công nghệ kĩ thuật cao.
Hơn thế nữa FDI còn đem lại kinh nghiệm quản lý, kĩ năng kinh doanh và
trình độ kĩ thuật cao cho các đối tác trong nước tiếp nhận đầu tư thông qua
những chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI mang lại cho họ
những kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước
đầu tư, thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo kĩ sư, những nhà
quản lý có chuyên môn, trình độ để tham gia vào các công ty liên doanh với
nước ngoài.
c) FDI tạo ra công ăn việc làm cho nước tiếp nhận đầu tư:
Thực ra đây là tác dộng kép: tạo thêm công ăn việc làm cũng có nghĩa là
tăng thêm thu nhập cho người lao động tạo điều kiện taưng tích luỹ trong nước.
FDI trực tiếp ảnh hưởng đến cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc
thu hút lao động vào các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. Qua mối quan hệ
hợp tác với các thành phần kinh tế trong nước FDI còn gián tiếp tạo thêm công
ăn việc làm cho nhiều lao động khác bằng các hoạt động: thu mua nguyên vật
liệu, gia công, dịchvụ…Tuy nhiên sự đóng góp của FDI vào việc tạo công ăn
việc làm còn phụ thuộc rất nhiều vào nước tiếp nhận đầu tư như về phong tục
tập quán, văn hoá, chính sách, khả năng kĩ thuật…
3
d) FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp
Hiện nay xu hướng toàn cầu hoá đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ
thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp cũng là một đòi hỏi
tất yếu để phù hợp với thời đại.
FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó
các quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động
quốc tế. Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình
liên minh liên kết kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia
phải thay đổi cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sụ phân công lao động
quốc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát
triển chung thế giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI.FDI góp phần
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi vì FDI làm xuất hiện
nhiều lĩnh vực ngành nghề mới, nâng cao trình độ kĩ thuật, tăng năng xuất lao
động…
Nhận thức được vai trò quan trọng của nguồn vốn đầu tư nước ngoài đặc
biệt là ĐTTTNN đối với sự phát triển kinh tế ngay từ khi bắt đầu tiến hành cải
cách kinh tế Việt Nam đã tiến hành các biện pháp nhằm thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn này. Cho đến nay sau 13 năm tiến hành thu hút ĐTTTNN
chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng vẫn còn rất nhiều vấn đề
còn tồn tại cần phải có biện pháp tháo gỡ . Một trong những biện pháp nhằm tạo
ra môi trường đầu tư hấp dẫn hơn đó là đa dạng hoá hình thức đầu tư. Hiện nay
ở Việt Nam theo pháp luật quy định thì có các hình thức đầu tư trực tiếp nước
ngoài như sau:
 Hợp đồng hợp tác kinh doanh.
 Doanh nghiệp liên doanh.
 Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoàI.
 Hợp đồng xây dựng-kinh doanh-chuyển giao (BOT Build-operate-
transfer)
 Xây dựng-chyển giao-kinh doanh (BTO).
4
 Xây dựng-chuyển giao(B-O).
 Hình thức khu chế xuất ( export processing zone ).
 Hình thức khu công nghiệp ( Industrial Zone ):
Trong các hình thức trên KCN-KCX tỏ ra là có triển vọng trong thu hút
và sử dụng có hiệu quả ngồn vốn FDI đồng thời hai hình thức này lại rất
phù hợp với những điều kiện kinh tế -xã hội của Việt Nam hiện nay.
II- TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP VÀ KHU CHẾ XUẤT:
KHÁI NIỆM :
1.1 Khái niệm KCX:
Theo điều lệ của Hiệp hội KCX thế giới ( WEPZA), KCX được hiểu theo
nghĩa rộng, bao gồm tát cả các kkhu vực được Chính Phủ các nước cho phép
hạot động như cảng tự do,khu mậu dịch tự do, KCN tự do hoặc bất kì khu vực
ngoại thương hay khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này đồng
nhất KCX với khu vực được miễn thuế
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) quan niệm
KCX là khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một
chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu thiết bị và mọi sản phẩm nhằm mục
đích sản xuất hàng xuất khẩu.Chế độ htuế quan được ban hành cùng những quy
định của luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế, nhằm thu hút đàu tư nước ngoài.
Trên thế giới cùnh với sự phát triển của hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế, KCX dần dần xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: Khu mậu dịch
tự do(Free Trade Zone hay Free Zone), kho quá cảng (Bonded warehouse), khu
quá cảng (Bonded Erea), Đặc khu kinh tế (Special Economic Zone)..
Cảng tự do là khu vực cảng trong đó quy chế hải quan được thiết chế
độc lập. Ở đây vốn đầu tư nước ngoài, hàng hoá tầu thuyền ra vào một cách tự
do, chính quyền không đánh thuế các loại nguyên liệu, vật tư và các bán thành
phẩm nhập nhập khẩu. Nhưng các hàng hóa nhập vào thị trường nội địa phải
chịu thuế hải quan bình thường.
5
Khu mậu dịch tự do thì khônhg nhất thiết phải là cảng tự do, ở đay có
sẵn các cơ sở kỹ thuật và phương tiện bốc xếp, vận chuyển chế biến lắp ráp, các
thiết bị phục vụ vận tải biển, vận tải biển và hàng không, các nghiệp vụ chung
chuyển hàng hoá. Mọi hàng hoá đều được nhập, xuát từ khu một cách tự do,
không phải chịu thuế hải quan.
Kho quá cảng, khu quá cảng có mục đích tương tựkhu mậu dịch tự do, ở
đây hàng hoá được tự do nhập vào mà không phải chịu thuế tái xuất, trừ các
hàng hóa nhập vào thị trường nội địa. Đồng thời trong các kho này còn tồn tại
hình thức kho quá cảng chế biến, tức là một khu vực khép kín, các hàng hoá
được nhập khẩu tự do và được chế biến, gia công, bao bì đóng gói có hay không
sử dụng vật liệu hay phụ kiện nội địa.
Theo qui chế ban hàn kèm theo nghị định của Chính phủ nước Cộng
Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “ KCX là một khu công nghiệp tập trung các
doanh nghiệp chế xuất sản xuất hàng xuất khẩu và thực hiện các dịch vụ liên
quan đến xuất khẩu. KCX là một khu khép kín, có danh giới địa lý xác định, biệt
lập với các vùng lãnh thổ ngoài khu chế xuấtbằng hệ thống tường rào, không có
dân cư sinh sống, do Chính phủ hoặc thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành
lập”. KCX được hưởng ưu đãi về nhiều mặt: nhập khẩu nguyên vật liệu , tuế
công ty, được cung cấp cơ sở hạ tầng tốt và các điều kiện khác để người sản xuất
tại đây có lợi nhuận cao nhất.. Khái niệm này được hiểu theo nghĩa hẹp.
Như vậy dù theo định nghĩa nào thì KCX đều được hiểu là khu vực tự do,
nằm ngoài chế độ thuế quan của một nước, chuyên sản xuất hàng xuất khẩu và
thực hiện các dịch vụ cho xuất khẩu.
1.2 Khái niệm KCN:
Hiện nay trên thế giới có hai cách hiểu về KCN:
Thứ nhất, KCN là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công
nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh
hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng nhà ở..Theo quan niệm này,
6
KCNthực chất là khu hành chính - kinh tế, trong đó sản xuất công nghiệp là hoạt
động chủ yếu, còn các hoạt động khác chỉ mang tính chất bổ trợ cho sản xuất
công nghiệp.
Thứ hai, KCN là khu vực có giới hạn lãnh thổ nhất định, trong đó tập trung các
doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất hàng công nghiệp, không có dân
cư sinh sống.
Việt nam định nghĩa “KCN là khu tập trung các doanh nghiệp sản xuất hàng
công nghiệp, có danh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính
phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ kí quyết định thành lập. Trong KCN có thể có
doanh nghiệp chế xuất.”
ĐẶC ĐIỂM :
2.1 Đặc điểm KCX:
Mặc dù các nước khác nhau thì có quy định cụ thể về KCX khác nhau somg một
KCX điển hình sẽ có các đặc điểm:
Một là : nhập khẩu tự do nguyên vật liêu và không hạn chế về số lượng. Đây
là ưu đãi đặc biệt so với sản xuất trong nước. Mặt khác doanh nghiệp trong KCX
còn được miễn thuế doanh thu, thuế xuất khẩu đối với sản phẩm sản xuất ra và
xuất khẩu. Hơn nữa, DNCX còn được nhận vài sự hỗ trợ trong quan hệ hợp tác
với nền kinh tế trong nước.
Hai là, các DNCX thường được Chính phủ nước chủ nhà quy định miễn
thuế thu nhập công ty và thuế lãi cổ phần từ 3 đến 10 năm.
Ba là, DNCX thường được ưu đãi trong hành chính như cung cấp thủ tục
hải quan nhanh chóng, miễn thực nhiều quy định được áp dụng trong nước (hạn
chế người nước ngoài chuyển lợi nhuận về nước, hạn chế người nước ngoài
quảm lý..)
Bốn là, DNCX được sử dụng cơ sở hạ tầng tốt (đường xá, điện, nước, điện
thoại..) và được trợ cấp trong sử dụng một số yếu tố : thuế điện, nước rất thấp ..
Tuy nhiên KCX có những hạn chế : do chúng là các khu đất riêng biệt nên
khó có thể điều hành việc khuyến mại, phát triển dịch vụ đến mức đủ hấp dẫn
7
nhà đầu tư. Hơn nữa nếu có sự sai lầm trong lựa chọn vị trí thì việc phát triển
thành công KCX là rất khó.
Vì vậy, theo đánh giá của ngân hàng thế giới, nhìn chung trên thế giới có
khoảng 40 đến 50% KCX đã thành công, chủ yếu tập trung ở Châu Á số lại nằm
ở châu Mỹ La Tinh và khu vực Ca-ri-bê ; 20-30% thành công ở từng mặt, còn
lại tới 30% là thất bại tập trung vào các khu vực Châu Phi và Trung Đông.
KCN và KCX khác nhau ở chỗ :
2.2 Phân biệt sự khác nhau giữa KCN và KCX
 KCX xây dựng để thu hút các đơn vị sản xuất sản phẩm xuất khẩu còn
KCN được mở ra cho tất cả các ngành công nghiệp (bao gồm cả sản
xuất hàng xuất khẩu và tiêu thụ trong nước). Như vậy, trong KCN có
thể có DNCX.
 KCN cho phép các công ty thuộc mọi thành phần kinh tế (bao gồm cả
công ty100% vốn trong nước).
 Doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nếu nằm trong KCN sẽ được
hưởng ưu đãi như trong KCX và cũng sẽ được hưởng ưu đãi như trọng
KCN.
2.3 Các điều kiện trong phân bố KCN:
KCN là hình thức tổ chức không gian lãnh thổ công nghiệp luôn gắn liền
phát triển công nghiệp với xây dựng kết cấu hạ tầng và hình thành mạng lưới đô
thị, phân bố dân cư hợp lý. Do vậy việc phân bố KCN phải đảm bảo các điều
kiện;
 Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả, có đất để
mở rộng, nếu có thể liên kết thành cụm công nghiệp. Đặc biệt là phải
có quy mô phù hợp với đặc điểm công nghệ chính gắn với điều kiện kết
cấu hạ tầng.
 Có thị trường đầu vào (lao động, nguyên nhiên vật liệu..) đầy đủ và
thuận lợi và có thể dễ dàng thay thế khi có sự cố sảy ra.
 Có thị trường tiêu thụ sản phẩm.
8
 Kết hợp chặt chẽ phát triển KCN với quy hoạch đô thị, phân bố dân cư,
đảm bảo an ninh quốc phòng.
 Phải đảm bảo điều kiện kết cấu hạ tầng đặc biệt là các công trình kỹ
thuật đấu nối với hạ tầng trong khu như : điện, nước, điện thoại..
Do vậy việc lựa chọn vị trí để xây dựng KCN là hết sức quan trọng bởi nó
không chỉ quýet định sự thành bại của bản thân KCN mà còn ảnh hưởng tới sự
phát triển kinh tế của vùng, của đất nước.
MỤC TIÊU CỦA KCN VÀ KCX:
Ngày nay KCN- KCX đã trở thành một hình thức rất phổ biến trên thế giới bởi
vì nó là nơi hội tụ mục tiêu của các nhà đầu tư và của nước chủ nhà.
3.1 Mục tiêu của nhà đầu tư:
 Di chuyển các ngành công nghiệp không đòi hỏi trình độ kĩ thuật
cao, các ngành công nghiệp đã tiêu chuẩn hoá, các ngành công nghiệp
đòi hỏi nhiều tài nguyên và lao động sống.
 Tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm.
 Tận dụng chế độ ưư đãi về tài chính của nước chủ nhà cho hoạt động
sản xuất của công ty ( miễn giảm thuế, phí dịch vụ với giá rẻ..).
 Khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường trong nước.
3.2 Mục tiêu của nước chủ nhà :
 Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để bổ sung nguồn vốn thiếu hụt,
học tập kỹ nănglao động và kinh nghiệm quản lý tiên tiến .. thúc đẩy quá
trình phát triển trong nước.
 Khai thác thị trường trong nước, tạo nguồn hàng xuất khẩu, cải thiện cán
cân thương mại, góp phần hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế
khu vực và thế giới.
 Thông qua việc cung cấp các sản phẩm có chất lượng, đa dạng hoá sản
phẩm từng bước nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời thông qua cạnh
tranh góp phần thúc đẩy phát triển các thành phần kinh tế khác trong nền
kinh tế.
9
 Tạo việc làm: phát triển KCN-KCX sẽ tạo thêmviệc làm góp phần giải
quyết nận thát nghiệp cao ở các nước đang phát triển.
4.. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG KCN-KCX Ở VIỆT NAM
Nền kinh tế nước ta vẫn đang phát triển ở trình độ thấp kém, còn thấp xa
sovới cả các nước trong khu vực, máy móc, công nghệ, thiết bị hầu hết là lạc
hậu, năng xuất lao động và chất lượng thấp, sản phẩm có tính cạnh tranh kém..
Để thực hiện CNH-HĐH, xây dựng nền công nghiệp hướng vào xuất khẩu thì
nhu cầu về vốn cũng như khoa học công nghệ là khá lớn.Trong khi đó tỷ lệ tiết
kiệm trong nước mặc dù có tăng sau những cải cách kinh tế nhưng vẫn còn quá
thấp. Để từng bước khắc phục tình trạng khó khăn thì chúng ta càn phải xây
dựng thành công KCN-KCX. Thật vậy, xây dựng KCN-KCX chúng ta sẽ:
 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia và
tập đoàn tư bản lớnđể xây dựng các các ngành công nghiệp xuất khẩu.
 Khắc phục tình trạng yếu kém về kết cấu cơ sở hạ tầng trên diện rộng và
nguồn vốn đầu tư hạn hẹp.
 Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong kim ngạch và cơ cấu hàng hàng xuất
khẩu trên cơ sở phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến xuất
khẩu có sự tham gia của các công ty nước ngoài.
 Tạo môi trường pháp lý riêng có nhiều ưu đãi với cơ chế tập trung, có
hiệu quả, thủ tục hành chính đơn giản thông thoáng cho nhà đầu tư trong
KCN-KCX.
 KCN- KCX là giải pháp có hiệu quả đối với vấn đề tạo công ăn việc làm,
đào tạo cán bộ quản lý và nâng cao trình độ tay nghề đội ngũ lao động.
Nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của KCN-KCX từ tháng 10
năm1991 Chính Phủ đã ban hành quy chế về KCX và tháng 4 năm 1997 đã ban
hành quy chế về KCN. Hoạt động của KCN-KCX đã troẻ thành một nét mới đặc
thù trong nền kinh tế đất nước, góp phần không nhỏ và sự phát triển kinh tế.
10
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ THU HÚT FDI VÀO
KCN-KCX
I - Thực trạng thu hút FDI vào việt nam thời gian qua
Cùng với việc ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
cuối năm 1987, hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh của khu vực kinh tế năng
động này ngày càng có vai trò quạn trọng, bổ sung nguồn vốn và đóng góp tích
cực cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong những năm 1991
đến 1995, vốn FDI chiếm 25,7% và từ năm 1996 đến nay, chiếm gần 30% tổng
vốn đầu tư của toàn xã hội, thúc đẩy khai thác phát huy nhiều nguồn lực trong
nước, góp phần giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Tỷ lệ đóng góp
của khu vực ĐTTTNN trong GDP cũng tăng dần qua các năm, từ năm 1992 đến
năm1999 lần lượt là :2%; 3,6%; 6,1%; 7,4%; 9,1%; 9%; 10,1% ;10,3%. Đến nay
đã có gần 3100 dự án của 65 nước và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép, tổng
vốn đầu tư đăng ký gần 43 tỷ USD trong đó vốn tăng thêm của các dự án đang
thực hiện là trên 5,5 tỷ USD. Trừ các dự án hết hạn, giải thể, hiện có khoảng
2500 dự án còn hiệu lực với vốn đăn ký đạt gần 36 tỷ USD. Vốn thực hiện đạt
gần 18 tỷ USD và hiện chiếm 23% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. trong giai đoạn
từ 1991 đến nay đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã có những chuyển biến tích
cực mặc dù đã có nhiều thăng trầm, đặc biệt vào giai đoạn cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ ở châu Á năm1997. Qua bảng dưới đây chúng ta phần nào thấy
được bức tranh toàn cảnh tình hình FDI vào Việt Nam
Năm 2000
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 6t
tháng
Vốn đăng
1014 1658 2723 4404 7437 8298 5443 2356 151 483

Vốn thực
213 394 1099 1946 2617 2646 3250 1956 100 600
hiện
% giẩm
-34,4 -43,6 -35,9 -43
VĐK
11
% giảm
-40 -20 -23
VTH
B1:Tình hình đầu tư qua cac năm( Triệu USD ) Nguồn : Bộ KH&ĐT
STT Ngành Tổng vốn đầu tư Tỷ trọng (%)
1 Công nghiệp và xây dựng 18,5 51
2 Nông lâm ngư nghiệp 1,4 4
3 Dịch vụ 16,5 45
B2:Cơ cấu FDI theo ngành( Tỷ USD ) Nguồn : Bộ KH&ĐT
II - SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KCN -KCX Ở VIỆT NAM
1. QÚA TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA KCN - KCX
Ở VIỆT NAM:
Kể từ khi KCX Tân Thuận - TpHCM ra đời vào cuối năm 1991, đến nay, cả
nước đã hình thành mạng lưới 65 KCN và 3 KCX, phân bổ rộng trên các vùng
của cả nước. Qúa trình xây dựng và phát triển các KCN-KCX Việt Nam chúng
ta có thể chia thành hai giai đoạn:
1.1 Giai đoạn 1988-1994
Mặc dù, khái niệm KCX lần đầu tiên được đề cập trong Luật đầu tư nước
ngoài vào năm 1987 nhưng cho đến tháng 10 năm 1991 thì Nghị định 322\
HĐBT do Hội đồng Bộ trương ban hành thì định nghiã về KCX, chủ thể đầu tư,
phạm vi đầu tư, hình thức đầu tư, tổ chức quản lý và một số chế độ có liên quan
mới được quy định trong Nghị định này. Cũng theo quy chế này thì chủ đầu tư
vào KCX sẽ được hưởng những ưu đãi như:
 Doanh nghiệp được miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, phụ tùng, vật tư,
nguyên vật liệu và hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài; đặc biệt là miễn
thuế đối với sản phẩm và hàng hoá xuất khẩu ra nước ngoài;
 Về thuế lợi tức: doanh nghiệp thuộc khu vực sản xuất được hưởng mức
thuế lợi tức 10% và được miễn thuế 4 năm kể tư khi kinh doanh bắt đầu
12
có lãi; đối với doanh nghiệp thuộc lĩnh vực dịch vụ thì mức thuế xuất là
15% và thời gian miễn thuế là 2năm.
So với các doanh nghiệp bên ngoài KCX cũng như các nước trong khu vực
thì các doanh nghiệp trong KCX của chúng ta được hưởng nhiều ưu đãi hơn:
thuế xuất thấp hơn, danh mục ưu đãi dài hơn. Ví dụ như Trung Quốc mức thuế
xuất 15%, 20% và thời gian miễn thuế là 2 năm cho cả hai khu vực sản xuất và
dịch vụ.
Mặc dù quy chế KCX ban hành vào tháng 10 năm 1991 nhưng việc chuẩn bị
để xây dựng KCX đầu tiên (KCX Tân Thuận, tp Hồ Chí Minh) đã được bắt đầu
từ năm 1989. Sau đó trong giai đoạn này lần lượt 5 KCX đã ra đời :KCX Linh
Trung - tp HCM (1992); KCX An Đồn- Đà Nẵng và KCX Hải Phòng (1993);
KCX Nội Bài và Cần Thơ (1994). Diện tích toàn bộ 6 khu là 937 ha, tổng số vốn
đầu tư của các dự án lên tới 315 triệu USD, dự tính có khoảng 690 đến 770 nhà
máy, xí nghiệp được thành lập khi các KCX đi vào hoạt độngvà toàn bộ diện
tích đi vào hoạt động.
Tuy nhiên sau 3 năm hoạt động, việc phát triển KCX tỏ ra không thành
công: trong 6 khu chỉ có KCX Tân Thuận được đưa vào hoạt động; KCX Hải
Phòng bị thu hồi giấy phép hoạt động; các khu còn lại tốc độ cây dựng rất chậm.
Trong thời kỳ này chỉ có 28 trong cố 900 dự án đầu tư nước ngoài vào khu; số
vốn đầu tư vào KCX chỉ đạt 3.3% số vốn đã đăng kí và 8% các nhà đầu tư vào
KCX trong tổng số các nhà đầu tư được cấp giấy phép. Trong đó, riêng KCX
Tân Thuận đã thu hút 89.% số dự án và 79.4% tổng số vốn đầu tư.
Tất cả các dự án doanh ngiệp KCX đều là các dự án 100% vốn nước ngoài.
Việc đóng góp của KCX đối với xuất khẩu không đáng kể do thời kì này phần
lớn các doanh nghiệp mới bắt đầu đi vào hoạt động.
1.2 Giai đoạn 1995 đến nay
Để tránh cho KCX gặp phải thất bại, kể từ tháng 10 năm 1995 Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định cho phép chuyển các KCX hoạt động kém hiệu quả
thành các KCN tập trung. Hai KCX Nội Bài Cần Thơ là những KCX đầu tiên
13
trở thành KCN. Đồng thời ở Việt Nam xuất hiện loại hình hỗn hợp giữa KCX và
KCN. Kể từ khi Nghị định 192/cp về quy chế KCN, KCN đã tỏ ra thích hợp hơn
với điều kiện Việt Nam, khai thác được những lợi thế sẵn có của đất nước như:
 Có thể thúc đẩy được xuất khẩu, mà vẫn khai thác được thị trường nội
địa.
 Những doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu 100% thì có thể thành lập
trong KCX nằm trong KCN được hưởng mọi ưu đãi như doanh nghiệp
chế xuất.
 Có thể thu hút được cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài vào
khu.
Sau khi ban hành quy chế này, hàng loạt các KCN được ra đời, chủ yếu tập
trung vào những vùng kinh tế trọng điểm : Hà Nội, Hải Phòng, TpHCM.
Trong những năm đầu, với chủ trương xây dựng KCN-KCX để tạo môi
trường đầu tư hấp dẫn nhằm thu hút ĐTTTNN nên hầu hết các KCN- KCX đều
do các doanh nghiệp có vốn nước ngoài đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Các
KCN- KCX do nước ngoài xây dựng có hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại, chất
lượng cao có thể đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư nước ngoài cho yêu
cầu sản xuất sản xuất sản phẩm chất lượng cao, phục vụ xất khẩu. Từ năm 1995
các KCN do doanh nghiệp trong nước xây dựng ngày càng nhiều, thường tập
trung ít vốn hơn, vừa xây dựng vừa khai thác đem vào kinh doanh, hướng chủ
yếu vào ngành công nghiệp mang định hướng xuất khẩu nhưng vẫn có thể tiêu
thụ trên thị trường trong nước và cũng đã tạo ra những kết quả đáng khích lệ.
Do quy chế KCN và quy chế KCX có nhiều điểm khác nhau nhưng cũng có
nhiều điểm trùng nhau nên đến 24/4/1997 Chính Phủ đã ban hành Nghị Định
36/cp về quy chế KCN-KCX thay thế cho các quy chế trước đây, quy chế này đã
đưa ra một số ưu đãi hơn cho các doanh nghiệp trong KCN-KCX, nhằm thu hút
mạnh mẽ đầu tư vào khu.
14
2. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA KCN-KCX:
2.1. Đánh giá về phân bố và hình thức đầu tư trong KCN-KCX:
Đến nay chúng ta đã hình thành mạng lưới 68 KCN (trong đó có 1 KCNC,
3KCX và 64 KCN ) được phân bố trên 27 tỉnh, phù hợp với nhịp độ phát triển
và với lợi thế của các vùng kinh tế trên cả nước: miền Bắc có 14, miền Trung có
13, miền Nam có 41 trong đó có 20 khu đạt trình độ hiện đại,13 khu có vốn
ĐTNN để xây dựng phát triển cơ sở hạ tầngvà có điều kiện thu hút đầu tư nước
ngoài. Tổng diện tích chiếm đất của các KCN, KCX chưa kể KCN Dung Quất là
trên 1vạn ha. Tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng là 2033 triệu USD, trong đó
vốn đầu tư nước ngoài là 40%, vốn trong nước là 60%. Vốn thực hiện đạt dưới
50%, có 22 KCN, KCX đã xây dựng hoàn chỉnh, hoặc căn bản đã hoàn thành cơ
sở hạ tầng.
So với số dự án và số vốn đăng kí của tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã được cấp giấy phép hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài thì
tỷ trọng FDI vào KCN-KCX chỉ đạt 18% về dự án và 18.5% về vốn đăng kí.
Hầu hết các doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài,
số lượng các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp trong nước là rất nhỏ và
thường được thành lập trước khi ra đời KCN vì trong KCN thì các doanh nghiệp
phải thuê đất với giá cao hơn bên ngoài, hơn nữa, các doanh nghiệp Việt Nam
không còn có thể dùng quyền sử dụng đất để góp vốn vào liên doanh.
2.2. Đánh giá về tốc độ triển khai
Trừ 3 KCX Tân Thuận, Linh Trung, Cần Thơ được cấp giấy phép từ năm
1991-1992 còn các KCN khác được cấp giấy phép từ năm 1994 trở về đây.
Riêng năm 1997 thành lập 22 KCN trong đó có 11 KCN phủ kín được trên 50%
diện tích đất công nghiệp. Theo số liệu thống kê năm 1999 có 79 dự án FDI với
số vốn 219 triệu USD được cấp giấy phép vào KCN-KCX tăng 43,6% so với số
15
dự án thu hút được năm 1998. Đầu tư trong nước có 108 dự án với tổng số vốn
là 2.887 tỷ đồng, tăng gần 4 lần so với năm 1998.
Do tính chất quan trọng của KCN nói chung và KCNC nói riêng hhối với quá
trình phát triển kinh tế của các nước, hiện nay, tuy đã tồn tại nhiều khu khoa
học- công nghiệp, nhiều nước vẫn tiếp tục có kế hoạch xây dựng nhiều KCNC
mới đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Việ Nam cũng đã xây dựng 2 KCNC
đầu tiên của mình là KCNC Hoà Lạc và KCNC thành phố Hồ Chí Minh với diện
tích 1600 ha.
Hiện nay có rất nhiều các cơ sở sản xuất vừa và nhỏ nằm xen kẽ trong các khu
dân cư gây tiến ồn, khói bụi và những ô nhiễm khác về môi trường. Hiện nay có
nhiều địa phương chủ trương xây dựng các KCN vừa và nhỏ để từng bước di dời
các cơ sở sản xuất này ra ngoài khu vực dân cư. Ở Hà Nội đã tiến hành xây
dựng 2 KCN vừa và nhỏ với diện tích mỗi khu từ 15 đến 20 ha, với giá thuê lại
đất hợp lý, phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp vừa và nhỏ nên đến nay số số
doanh nghiệp đăng kí thuê lại đất đã lấp đầy 100% diện tích.
MỘT SỐ CHỈ TIÊU VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA KCN VÀ KCX TÍNH ĐẾN
30 THÁNG 6 NĂM 2000 (được thành lập và hoạt động theo
NĐ36/CP)
ST Chỉ tiêu Số liệu
T
1 68 khu
TỔNG SỐ KCN-KCX
3 khu
Trong đó: KCX
2 Tổng diện tích đất ( không kể Dung Quất) 11.000 ha
3 Tổng số vốn xây dựng hạ tầng 2.033 triệu USD
Trong đó đã thực hiện 40%
4 Số doanh nghiệp thành lập trong khu 1090 doanh nghiệp
16
Trong đó doanh nghiệp có FDI 600 dn (55%)
5 Tổng số vốn đầu tư đăng kí 8,07 Tỉ USD
Trong đó FDI 6,5 Tỉ USD (80%)
6 Tổng diện tích đất đã cho thuê 2300 ha
(35%đất công nghiệp)
NGUỒN BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
Trong những năm gần đây, nguồn ĐTNN vào Việt Namcó xu hướng giảm sút
mạnh: năm 1999 chỉ bằng 21% năm 1998 và 6 tháng năm 2000 mặc dù có tăng
cả về số dự án cũng như số vốn nhưng vẫn thấp hơn năm 1996. Nhưng đối với
khả năng đầu tư vào KCN-KCX tuy không tăng mạnh nhưng không giảm nhanh
so với tình hình đầu tư nước ngoài. Nguyên nhân của tình trạng trên là FDI vào
Việt Nam trong những năm qua chủ yếu là từ Nhật Bản, các nước NICs và
ASEAN, trong khi đó nền kinh tế của các nước này lại bị ảnh hưởng nặng nề bởi
cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nên họ buộc phải cắt giảm đầu tư ra nước
ngoài. Hơn nữa, trong khi Việt Nam thay đổi chính sách đầu tư (sửa đổi luật đầu
tư năm 1996) đã làm cho các nhà đầu tư e ngại chờ đợi thì những nước thu hút
đầu tư lớn như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước trong khu vực lại dang triêt để
thực hiện chính sách thu hút FDI
Theo quy hoạch đến năm 2010 cả nước sẽ có 96 KCN tuy nhiên tốc độ phát
triển KCN-KCX phải cân xứng với tốc độ phát triển CNH-HĐH đất nước nên
vấn đề không phải số lượng KCN được cấp giấy phép mà là khả năng lấp đầy
KCN bằng các dự án. Phát triển KCN hợp lý là việc làm cần thiết nếu không sẽ
dẫn tới 2 hiện tượng phổ biến:
Một là: Xây dựng xong KCN mà ít người thuê mướn sẽ gây lãng phí
nghiêm trọng về vốn và quỹ đất đai.
Hai là: Cạnh tranh không lành mạnh giữa các KCN làm giảm mạnh tiền
thuê đất đai, nhà xưởng làm cho Nhà nước thất thu thuế, các doanh nghiệp KCN
làn ăn kém hiệu quả.
17
Đến nay chúng ta đã có 21 KCN lấp đầy trên 50% diện tích đất công nghiệp,
được đánh giá là hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn đầu, riêng thành phố Hồ
Chí Minh, tỉnh Bình Dương và Đồng Nai đã có 16 khu dược lấp đầy 50%.
2.3. Đánh giá về cơ chế quản lý Nhà nước đối với KCN và KCX
Từ những văn bản đầu tiên trên nghịi định số 322 của HĐBT ngày 18 thánh
10 năm 1991 về KCX tại Việt Nam, đến nay loại hình này được đề cập và chi
tiết thi hành trong luật ĐTNN, đặc biệt là nghị định 10/cp ban hành ngày 23
tháng 10 năm 1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt đọng
FDI tại Việt Nam với những quyết định thông thoáng hơn, ưu đãi nhiều hơn cho
các doanh nghiệp hoạt động trong KCN và KCX. Trên cơ sở các văn bản luật
này, các bộ ngành có liên quan đã ban hành các thông tư hướng dẫn Luật và
Nghị định tạo cơ sở pháp lý để quản lý hoạt đọng KCN và KCX theo ngyên tắc
“một cửa” thông qua cơ chế uỷ quyền cho các ban quản lý KCN và KCX cấp
tỉnh. Thủ tướng Chính phủ cũng thành lập một cơ quan riêng là ban quản lý
KCN và KCX Việt Nam để trực tiếp tư vấn cho Thủ tướng Chính phủ những
vấn đề liên quan đến KCN và KCX. Đến nay đã có 19 Ban quản lý KCN và
KCX cấp tỉnh được thành lập, trong đó có hai ban quản lý chuyên trách quản lý
một KCN là Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban quản lý KCN Việt Nam -
Singapore. Nhiệm vụ chính của Ban quản lý KCN cấp tỉnh là vận động, xúc tiến
đầu tư, cấp giấy phép đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
KCN-KCX. Ngoài ra BQL các KCN-KCX cấp tỉnh còn được uỷ quyền xét
duyệt kế hoạch xuất, nhập khẩu, quản lý lao động, hải quan, xây dựng và cấp
giấy chứng nhận xuất xứ hàng hoá trong KCN và KCX. Như vậy bằng cơ chế uỷ
quyền cho Ban quản lý KCN-KCX cấp tỉnh sẽ rút ngắn được thủ tục hành chính
phần nào giải toả về mặt tâm lý cho các nhà đầu tư nước ngoài về chính sách của
Nhà nước ta đối với khu vực FDI nói chung và KCN- KCX nói riêng.
Để thống nhất quản lý hoạt động của các KCN từ 17/8/2000 Thủ tướng
Chính phủ đã ra quyết định 99/2000 QĐ TTg về việc tổ chức lại Ban quản lý
18
KCN Việt Nam. Theo quyết định này các Ban quản lý KCN Việt Nam được
chuyển về và trực thuộc Bộ Kế hoạch Đầu tư. Quyết định 1000/2000 QĐ TTg
về việc chuyển giao Ban quản lý KCN cấp tỉnh về trực thuộc UBND Tỉnh,
Thành phố trực thuộc Trung ương ( Trừ Ban quản lý KCN Dung Quất và Ban
quản lý KCN Việt Nam -Singapore). Theo quyết định này Ban quản lý KCN
Cấp tỉnh trực tiếp quản lý các hoạt động của KCN đồng thời lại chịu sự chỉ đạo
về tổ chức quản lý của UBND cùng cấp, và chịu sự chỉ đạo về nghiệp vụ của
Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý chuyên ngành. Hy vọng
hoạt động quản lý của các KCN Việt Nam sẽ tránh khỏi những chồng chéo về
thẩm quyền và đơn giản hoá một số thủ tục hành chính.
2.4 Đánh giá về đóng góp của KCN - KCX đối với sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân.
Với 68 KCN hiện có thì số lượng KCN của nước ta đang đi dần vào giai đoạn
ổn định và chuyển sang thời gian nâng cao chất lượng hoạt động. Kết quả hoạt
động của các KCN đang dần rõ nét với tốc độ phát triển khá và tương đối bền
vững trong mấy năm nay.
Việc phát triển KCN-KCX đã góp phần đáng kể vào sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước:
Một là: Thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh xuất khẩu, góp phần thực
hiện mục tiêu tăng trưởng.
Để thực hiện thành công đường lối đổi mới, phát triển kinh tế xã hội thì nhu
cầu về vốn là rất lớn. Trong khi đó lượng vốn đầu tư trong nước chỉ đạt khoảng
50-60% số vốn đầu tư cần thiết. Như vậy số cò lại phải tại ra từ đầu tư nước
ngoài, sử dụng nguồn vốn nước ngoài để phát triển là sự cần thiết, là biện pháp
thông minh để rút ngắn thời gian tích luỹ. Để thu hút được vốn ĐTTTNN trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay, Việt Nam cần nâng cấp cơ sở hạ tầng, xoá
bỏ những cản trở cho tự do thương mại, tạo môi trường vĩ mô ổn định. Chính vì
vậy, KCN-KCX ra đời là con đường thích hợp để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Với số lượng gần 1100 doanh nghiệp hoạt động trong KCN -KCX trong đó có
19
600 là doanh nghiệp nước ngoài chiếm 81,25%(6,5 tỷ USD) lượng vốn đăng kí
có thể nói rằng KCN đã từng bước thực hiện được mục thiêu đặt ra.
Cũng như năm 1999, trong 6 tháng đầu năm 2000 các KCN tạo giá trị sản
lượng chiếm trên 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16% giá trị xuất khẩu
của cả nước với doanh số đạt 1,6 tỉ USD ( xuất khẩu 1,1 tỉ USD), tỷ lệ xuất khẩu
dạt 65% tăng 25% so với cùng kì năm trước cả về doanh số và giá trị xuất khẩu.
Như vậy tính đến tháng 6 năm 2000 giá trị tổng sản lượng của KCN và KCX đạt
7,5 tỉ USD trong đó xuất khẩu 5.2 tỉ USD chiếm khoảng 55% giá trị xuất khẩu
của khu vực FDI.
BẢNG 3 : KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP KCN -KCX
Đơn vị: tr USD
1996-
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 6/2000
6/2000
1- Doanh thu 400 1400 1870 2450 1600 7720
2 Xuất khẩu 320 800 1300 1700 1100 5220
3. Tỷ lệ xuất
khẩu so với 80 57,2 69,4 69,4 68,75 67,61
doanh thu(%)
4.Xuất khẩu
KCN so với tổng
40,7 53,3 52,2 65,96 69,6 63,2
giá trị XK
FDI(%)
Hai là: KCN-KCX tạo thêm công ăn việc làm.
Tính đến tháng 6 năm 2000 các KCN đã thu hút được hơn 18 vạn lao động,
theo dự đoán trong vòng 10 năm tới sẽ cần thêm khoảng 50-60 vạn lao động,
đây là một con số nhỏ so với tổng số lao động ở nước ta, Tuy nhiên xét một cách
riêng biệt thì tác động của KCN-KCX lên thị trường lao động của nước ta là rất
20