Đánh giá sự tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế tphcm

  • 81 trang
  • file .pdf
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
-----------
PHẠM THỊ NGỌC DUNG
ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HỒ CHÍ MINH
-----------
PHẠM THỊ NGỌC DUNG
ĐÁNH GIÁ SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN NGỌC HÙNG
Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2012
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu, kết quả nêu trong luận văn là hoàn toàn trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Học viên: Phạm Thị Ngọc Dung
Lớp: TCNNK18
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
STT TÊN BẢNG TRANG
1 Bảng 1.1. Hệ số ICOR của các nước qua các năm 23
2 Bảng 1.2. Hệ số ICOR của Việt Nam thời kỳ 1995- 2011 24
3 Bảng 2.1. Giá trị gia tăng tăng trưởng kinh tế Thành phố HCM 31
4 Bảng 2.2. Vốn đầu tư qua các giai đoạn tại Thành phố HCM 35
5 Bảng 2.3. Cơ cấu vốn đầu tư công của thành phố HCM qua các 38
giai đoạn
6 Bảng 2.4: Cơ cấu vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc ngân sách địa 38
phương
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
STT TÊN BIỂU ĐỒ TRANG
1 Biểu đồ 2.1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế TP.HCM qua các năm 30
2 Biểu đồ 2.2. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân qua các giai 32
đoạn của các khu vực
3 Biểu đồ 2.3. Tốc độ tăng trưởng GDP các ngành kinh tế 33
4 Biểu đồ 2.4: Cơ cấu kinh tế của Thành phố HCM theo ngành 34
qua các năm
5 Biểu đồ 2.5: Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP của thành phố HCM 36
6 Biểu đồ 2.6. Cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 2001-2005 40
7 Biểu đồ 2.7. Cơ cấu vốn đầu tư giai đoạn 2006-2010 41
MỤC LỤC
Lời mở đầu ..................................................................................................................... 1
Lý do chọn đề tài ........................................................................................................ 1
Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................................... 1
Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 2
Đối tượng và phạm vị nghiên cứu .............................................................................. 2
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ........................................................................................ 2
Kết cấu đề tài .............................................................................................................. 2
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ
CÔNG ............................................................................................................................. 3
1.1. Lý thuyết cơ bản về tăng trưởng kinh tế ............................................................. 3
1.1.1. Các khái niệm ................................................................................................... 3
1.1.2. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế................................................................. 5
1.2. Lý thuyết cơ bản về đầu tư công ........................................................................... 9
1.2.1. Các khái niệm ................................................................................................... 9
1.2.2. Quan điểm về đầu tư công .............................................................................. 14
1.2.3. Đặc điểm, vai trò của đầu tư công .................................................................. 16
1.3. Mối tương quan giữa đầu tư công và tăng trưởng kinh tế ............................... 19
Kết luận chương 1 ......................................................................................................... 26
Chương 2: ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG ĐẾN TĂNG
TRƯỞNG KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................. 27
2.1. Giới thiệu tổng quan về Thành phố Hồ Chí Minh ............................................ 27
2.2. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và đầu tư công tại Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 1990 đến năm 2011 .............................................................................. 29
2.2.1. Tình hình tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1990 đến
năm 2011 ....................................................................................................................... 29
2.2.2. Thực trạng đầu tư công trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1990
đến năm 2011 ................................................................................................................ 34
2.2.2.1. Tổng vốn đầu tư trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ........................ 34
2.2.2.2. Cơ cấu đầu tư công trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ................... 37
2.2.3. Kết quả và tồn tại của đầu tư công trên địa bàn thành phố ............................. 41
2.3. Đánh giá tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế Thành phố Hồ
Chí Minh từ năm 1990 đến năm 2011 ....................................................................... 51
2.3.1. Ứng dụng mô hình Harrod-Domar trong phân tích tác động đầu tư công đến
tăng trưởng kinh tế TP.Hồ Chí Minh ............................................................................ 51
2.3.2. Khung phân tích tác động đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
TP.Hồ Chí Minh ............................................................................................................ 52
2.3.3. Kết quả tính toán ................................................................................................. 53
Kết luận chương 2 ......................................................................................................... 57
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ ĐẦU TƯ CÔNG CỦA THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI ............................................................. 58
3.1. Định hướng đầu tư công của Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020 .................. 58
3.2. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả đầu tư công trên địa bàn thành phố .............. 60
Kết luận chương 3 ......................................................................................................... 66
Kết luận ........................................................................................................................ 67
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế - xã hội lớn nhất nước, có vai
trò quan trọng trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, thu ngân sách quốc gia.
Đồng thời thành phố Hồ Chí Minh có một vị trí địa lý, kinh tế đặc biệt quan trọng
như có hệ thống mạng lưới cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật và xã hội đồng bộ; là nơi
kết nối giao thông thuận lợi về đường bộ, đường sông, đường biển và hàng không
giữa 2 miền Đông và Tây Nam bộ với khu vực Đông Nam Á, liên thông vào mạng
lưới chung về giao thông với Châu Á và thế giới; ở giữa khu vực Đông Nam Á có
các điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, văn hoá, trong đó Thành phố có tốc độ
phát triển kinh tế hàng hoá, dịch vụ nhanh nhất và ổn định nhất. Vì vậy, thành phố
được xem là đầu tàu kinh tế thúc đẩy phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam
và cả nước. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đã
đạt được nhiều bước phát triển đáng kể. Kết quả của công cuộc đổi mới đã nâng cao
thu nhập, chất lượng đời sống của người dân, cải thiện bộ mặt chung của cả xã hội.
Để đạt được những thành tựu này, bên cạnh kết quả sản xuất kinh doanh của các
thành phần kinh tế còn có sự đóng góp rất lớn từ các chính sách điều hành của chính
quyền thành phố thông qua các hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan hành
chính, hoạt động đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách vào các lĩnh vực phát triển hạ
tầng kinh tế - xã hội. Trong đó, đầu tư công chiếm vai trò vô cùng quan trọng và rất
cần thiết vì đây là công cụ khắc phục các hạn chế của nền kinh tế thị trường, là đòn
bẫy kinh tế, tạo điều kiện cho đầu tư từ các khu vực còn lại phát huy hiệu quả cao
thông qua việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, đồng thời còn giúp phát triển về
văn hoá xã hội mà các thành phần kinh tế tư nhân thường ít tham gia vào.
Để tìm hiểu sự tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế của Thành
phố trong thời gian qua, tôi đã lựa chọn đề tài: “Đánh giá sự tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
2
Đề tài được nghiên cứu nhằm đánh giá sự tác động đầu tư công đến tăng
trưởng kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua. Từ đó đưa ra các
giải pháp, khuyến nghị nhằm giúp lãnh đạo Thành phố có chính sách đầu tư hợp lý
để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng: từ mô hình nghiên cứu, thu
thập số liệu và sử dụng phần mềm SPSS để kiểm định mối tương quan giữa tỷ lệ
đầu tư công trên GDP và tốc độ tăng trưởng GDP của Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính để đưa ra một số
kiến nghị nâng cao hiệu quả đầu tư công trên địa bàn thành phố.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng đầu tư công và tác động của đầu tư
công đến tăng trưởng kinh tế thành phố Hồ Chí Minh
- Phạm vi nghiên cứu: dựa vào mô hình Harrod – Domar, đánh giá sự tác
động của vốn đầu tư đến tốc động tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1990 – 2011
5. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
- Góp phần đánh giá đúng tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế
trên địa bàn Thành phố HCM.
- Đề xuất ra các giải pháp, khuyến nghị để đầu tư công có hiệu quả hơn
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao và bền vững trong dài hạn.
- Đây là tài liệu tham khảo hữu ích cho lãnh đạo Thành phố HCM trong quá
trình hoạch định chính sách đầu tư và phân bổ vốn đầu tư công trong thời gian tới.
6. KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Đề tài được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan về tăng trưởng kinh tế và đầu tư công.
Chương 2: Đánh giá tác động của đầu tư công tới tăng trưởng kinh tế Thành
phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số kiến nghị về đầu tư công của thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian tới
3
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ
CÔNG
1.1. Lý thuyết cơ bản về tăng trưởng kinh tế
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1.1. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm), bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự
gia tăng về mặt lượng của một nền kinh tế. Nó được đo bằng nhiều chỉ tiêu khác
nhau, như tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay thu
nhập bình quân đầu người trên năm (GDP/người/năm, GNP/người/năm). Tốc độ
tăng trưởng kinh tế là mức (%) được tăng thêm của sản lượng GNP, GDP,
GDP/người hay GNP/người của năm này so với năm trước hay giai đoạn này so với
giai đoạn trước. Với ý nghĩa này, tăng trưởng kinh tế là mục tiêu theo đuổi của mọi
quốc gia, mọi nền kinh tế trước yêu cầu tồn tại và phát triển.
1.1.1.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội là giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ
cuối cùng được sản xuất ra trong phạm vi một lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ
nhất định (thường là một năm).
Tổng sản phẩm quốc nội có thể được tính theo ba phương pháp sau:
- Phương pháp sản xuất:
GDP = ∑ VAj (j = 1, 2, 3,..., m)
Trong đó:
VAj là giá trị gia tăng của ngành j
m là số ngành trong nền kinh tế
với VA = GO – CPTG
GO: tổng giá trị sản lượng đầu ra, là toàn bộ giá trị sản lượng hàng
hóa và dịch vụ mà một nền kinh tế có thể sản xuất ra được trên lãnh thổ của mình
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
4
CPTG: chi phí trung gian, là chi phí cho hàng hóa và dịch vụ trung
gian – là những hàng hóa và dịch vụ dùng làm đầu vào cho quá trình sản xuất ra
hàng hóa, dịch vụ khác và được sử dụng hết một lần cho quá trình đó.
- Phương pháp chi tiêu:
GDP = C + I + G + X – M
Trong đó:
C: tiêu dùng của hộ gia đình
I: chi tiêu đầu tư tư nhân (đầu tư TSCĐ, TSLĐ)
G: tiêu dùng của Chính phủ
X – M: xuất khẩu ròng trong năm
- Phương pháp thu nhập:
GDP = W + R + i + Pr + Te + Dep
Trong đó:
W : tiền lương
R : tiền cho thuê mặt bằng, máy móc hay phát minh khoa học
i : tiền lãi
Pr: lợi nhuận của doanh nghiệp
Te: thuế gián thu
Dep: khấu hao tài sản cố định
1.1.2. Nguồn gốc tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng tổng sản lượng quốc gia trong một thời kỳ
nhất định. Sản lượng được tạo ra từ sản xuất, như vậy nguồn gốc của tăng trưởng
xuất phát từ quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình mà trong đó các yếu
tố đầu vào được phối hợp theo những cách thức tốt nhất để tạo ra khối lượng sản
phẩm. Nếu xét ở góc độ phạm vi toàn bộ nền kinh tế thì việc tạo ra tổng sản lượng
quốc gia sẽ có quan hệ phụ thuộc vào các nguồn lực đầu vào của quốc gia. Tổng sản
lượng quốc gia sẽ thay đổi khi có sự thay đổi các nguồn lực đầu vào.
5
Các lý thuyết tăng trưởng ra đời phân tích nguồn gốc của tăng trưởng với
nhiều quan điểm khác nhau, mỗi lý thuyết đều có sự khám phá mới, nhưng trên căn
bản vẫn là phân tích mối quan hệ đầu ra với đầu vào.
Mối quan hệ đầu ra (GDP, GNP) với đầu vào được khái quát qua hàm sản xuất:
Y = F(Xi) với i = 1, 2, 3, ..., n
Xi là yếu tố đầu vào
Hầu hết các nhà kinh tế học thống nhất các yếu tố đầu vào cơ bản của nền
kinh tế, bao gồm:
(1) Vốn sản xuất: yếu tố tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất để tạo ra
tổng sản lượng quốc gia,
(2) Lao động: yếu tố sản xuất đặc biệt có ảnh hưởng quan trọng đến gia tăng
sản lượng quốc gia.
(3) Đất đai nông nghiệp và tài nguyên thiên nhiên khác: tư liệu sản xuất góp
phần làm gia tăng sản lưởng quốc gia
(4) Công nghệ: yếu tố làm thay đổi phương thức sản xuất, tăng năng suất lao
động, tăng sản lượng quốc gia.
Như vậy hàm sản xuất tổng hợp được thể hiện:
Y = F (K, L, R, T)
Hàm sản xuất cho thấy tổng sản lượng phụ thuộc vào quy mô, chất lượng của
các yếu tố đầu vào và cách thức phối hợp chúng. Mỗi yếu tố có một vai trò nhất
định và có tác động lẫn nhau, tùy theo mỗi giai đoạn phát triển kinh tế mà có thể
yếu tố nào đó sẽ được đề cao hơn yếu tố khác, nhưng không có nghĩa là chỉ phụ
thuộc suy nhất vào một yếu tố. Ngoài các yếu tố trên, tăng trưởng kinh tế còn phụ
thuộc vào các yếu tố khác như: thể chế kinh tế chính trị, đặc điểm văn hóa – xã hội,
tôn giáo,...
1.1.3. Các lý thuyết về tăng trưởng kinh tế
1.1.3.1. Lý thuyết tăng trưởng cổ điển
Theo Adam Smith (1723 – 1790): lao động là nguồn gốc tạo ra của cải cho
đất nước chứ không phải đất đai và tiền bạc. Ông cho rằng: “mọi cá nhân không có
6
ý định thúc đẩy lợi ích công cộng mà chỉ nhằm vào lợi ích riêng của mình, và ở đây
cũng như nhiều trường hợp khác, người đó được bàn tay vô hình dẫn dắt để phục vụ
một mục đích không nằm trong ý định của mình”.
Theo Ricardo (1772 – 1823): nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng nhất,
từ đó ông cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế là đất đai, lao động và
vốn. Ông cho rằng giới hạn của đất đai làm cho lợi nhuận của người sản xuất có xu
hướng giảm do chi phí sản xuất lương thực thực phẩm cao, giá hàng hoá tăng, tiền
lương danh nghĩa tăng và giới hạn của đất cũng làm cho năng suất lao động nông
nghiệp thấp, xuất hiện thừa lao động trong nông nghiệp do đó hiệu suất sử dụng lao
động thấp làm ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Theo Karl – Mark (1818 – 1883): Quá trình tái sản xuất bao gồm các yếu tố:
đất đai, lao động, vốn và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Ông đặc biệt quan tâm đến vai
trò của lao động trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Theo Mark, giữa cung và cầu của
thị trường luôn có một khoảng cách. Để giải quyết vấn đề này cần phải có tích lũy
sản xuất, tích lũy hàng hóa. Đây cũng là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ. Cũng theo
ông, sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng có chu kỳ, để tiếp tục phát triển, các
nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư bản cố định với quy mô lớn làm cho nền kinh
tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh. Để đổi mới được tư bản cố định, các nhà tư bản
cũng nhất thiết cần có hoạt động đầu tư đổi mới công nghệ.
1.1.3.2. Lý thuyết tăng trưởng của trường phái tân cổ điển
Mô hình J. Maynard Keynes (1883 – 1946)
Với lý thuyết chung về việc làm, lãi suất và tiền tệ (1936) thì nền kinh tế có 2
đường tổng cung: một đường cung phản ánh mức sản lượng tiềm năng và một
đường cung phản ánh mức thực tế. Cân bằng của nền kinh tế không nhất thiết ở
mức sản lượng tiềm năng mà thông thường ở mức thấp hơn.
Ông chỉ ra xu hướng thu nhập tăng thì tiêu dùng biên giảm (tiêu dùng trung
bình giảm) và tiết kiệm biên tăng (tiết kiệm trung bình tăng). Đây là nguyên nhân
cơ bản của trì trệ kinh tế. Chính vì thế, đầu tư đóng vai trò quyết định quy mô việc
làm, nhưng khối lượng đầu tư phụ thuộc vào lãi suất cho vay và hiệu suất biên của
7
vốn. Muốn thoát khủng hoảng và thất nghiệp thì nhà nước phải thực hiện điều tiết
bằng các chính sách kinh tế, bằng cách tăng cầu tiêu dùng. Sử dụng ngân sách nhà
nước để kích thích đầu tư thông qua các đơn đặt hàng của nhà nước và trợ cấp vốn
cho các doanh nghiệp. Nhà nước cần tăng khối lượng tiền tệ giảm lãi suất, phát triển
hệ thống thuế để bổ sung ngân sách, xem đầu tư công cộng của Chính phủ là lực
đẩy.
Mô hình Harrod - Domar
Mô hình này giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế với yếu
tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y là sản lượng năm t
Y
g= : Tốc độ tăng trưởng kinh tế
Yt
Y : Sản lượng gia tăng trong kỳ
S : Tổng tiết kiệm trong năm
S
s= : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
Yt
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
K
Từ công thức: ICOR =
Y
I
Nếu K  I , ta có : ICOR =
Y
Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có:
K s * Y s *Y
ICOR =  Từ đây suy ra: Y 
Y Y ICOR
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Y s *Y
g  :Y
Y ICOR
8
s
Cuối cùng ta có: g
ICOR
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh
tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích lũy để đầu tư trên
GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn của I, đầu tư
làm gia tăng vốn sản xuất (  K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp gia tăng  Y.
Mô hình này cho thấy tốc độ tăng trưởng GDP tỷ lệ thuận với tỷ lệ tiết kiệm
(s) và tỷ lệ nghịch với ICOR. Khó khăn của các nước đang phát triển là khả năng
huy động vốn do thu nhập thấp nên tỷ lệ tiết kiệm thấp, và vấn đề tiếp theo sau đó là
hiệu quả đầu tư. Vì vậy, mô hình này yêu cầu Chính phủ cần can thiệp để thúc đẩy
tiết kiệm cho đầu tư và đưa ra các giải pháp đầu tư sao cho có hiệu quả.
Tóm lại, các mô hình tăng trưởng trong giai đoạn này đều chú trọng rất nhiều
vào tác động của yếu tố vốn và vai trò của Chính phủ trong quá trình tăng trưởng
kinh tế.
1.1.3.3. Lý thuyết tăng trưởng hiện đại
Paul Samuelson (1948) đại biểu của trường phái kinh tế học vĩ mô tổng hợp,
theo ông sự cân bằng của nền kinh tế nằm dưới sản lượng tiềm năng (Keynes) và
các yếu tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là tập hợp:
- Quan điểm của Tân cổ điển về tỷ lệ lao động và vốn (có thể lựa chọn kỹ
thuật sử dụng nhiều vốn hoặc kỹ thuật sử dụng nhiều lao động để tăng trưởng kinh
tế)
- Quan điểm của Harrod- Domar về vai trò của vốn đối với tăng trưởng kinh
tế.
- Quan điểm của Keynes về vai trò của tổng cầu đối với tăng trưởng kinh tế.
Theo ông, vai trò của Chính phủ trong tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng.
Nhà nước cần xác định tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên và lạm phát chấp nhận được, bên
cạnh đó thị trường là yếu tố cơ bản điều tiết hoạt động kinh tế, tác động qua lại giữa
tổng cung và tổng cầu tạo ra mức thu nhập thực tế; việc làm- thất nghiệp; mức giá-
lạm phát,...
9
Tóm lại, các lý thuyết tăng trưởng kinh tế chủ yếu tập trung làm rõ các biến
số làm nên sự gia tăng về sản lượng trong nền kinh tế, đồng thời cho biết tác động
của Chính phủ là bao nhiêu trong sản lượng gia tăng đó.
1.2. Lý thuyết cơ bản về đầu tư công
1.2.1. Các khái niệm
1.2.1.1. Khái niệm đầu tư
 Khái niệm đầu tư
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào
đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ
ra. Như vậy, mục tiêu của đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy
sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà
xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy
móc…), tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động,
trình độ quản lý…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc với năng suất cao
hơn trong nền sản xuất xã hội.
Theo cách hiểu thông thường nhất trong xã hội, đầu tư là việc bỏ vốn ra bằng
các tài sản hữu hình (tiền, nhà xưởng, máy móc,...) hoặc vô hình (phát minh, sáng
chế, thương hiệu,...) để kinh doanh nhằm đạt được lợi ích nào đó trong tương lai.
Còn theo kinh tế học vĩ mô thì đầu tư được hiểu là tăng vốn tư bản nhằm tăng
cường sức sản xuất trong tương lai. Có nghĩa là đầu tư là việc bỏ tư bản để đạt được
mục đích kinh tế, là hoạt động mang lại lợi nhuận cho chủ đầu tư. Đầu tư còn được
gọi là hình thành tư bản hoặc tích lũy tư bản. Chỉ có tăng tư bản làm tăng năng lực
sản xuất vật chất mới được tính là đầu tư, còn tăng tư bản trong lĩnh vực tài chính
tiền tệ và kinh doanh bất động sản không được coi là đầu tư.
 Khái niệm đầu tư công:
Việc gia tăng tư bản tư nhân được gọi là đầu tư tư nhân, còn gia tăng tư bản
xã hội được gọi là đầu tư công. Việc làm gia tăng tư bản xã hội thuộc chức năng của
10
Chính phủ, vì vậy đầu tư công thường được đồng nhất với đầu tư mà Chính phủ
thực hiện.
Đối với Việt Nam, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung thì đầu tư của
Nhà nước là chủ yếu, và lúc đó trong quá trình quản lý kinh tế và thống kê chỉ sử
dụng khái niệm “đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước”. Thuật ngữ “đầu tư công”
được sử dụng từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh các thuật ngữ khác
như “đầu tư của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh” và “đầu tư trực tiếp nước
ngoài”. Các khái niệm “đầu tư công” và “đầu tư của Nhà nước (hay Chính phủ)”
được sử dụng với ý nghĩa giống như nhau. Theo thống kê hiện nay, đầu tư công ở
nước ta bao gồm (Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang Thái, 2011):
- Đầu tư từ ngân sách;
- Đầu tư theo các chương trình hỗ trợ có mục tiêu (thường là các chương
trình mục tiêu trung và dài hạn);
- Tín dụng đầu tư (vốn cho vay) của Nhà nước có mức độ ưu đãi nhất định;
- Đầu tư của các doanh nghiệp Nhà nước, mà phần vốn quan trọng của doanh
nghiệp có nguồn gốc từ ngân sách Nhà nước.
Khái niệm “đầu tư công” còn được hiểu là việc sử dụng nguồn vốn Nhà nước
để đầu tư vào các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội không
nhằm mục đích kinh doanh. Theo Dự thảo Luật đầu tư công của Việt Nam 2007 thì
lĩnh vực đầu tư công gồm:
- Chương trình mục tiêu, dự án phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế, xã
hội, môi trường, quốc phòng, an ninh; các dự án đầu tư không có điều kiện xã hội
hoá thuộc các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, y tế, khoa học, giáo dục, đào tạo và
các lĩnh vực khác.
- Chương trình mục tiêu, dự án phục vụ hoạt động của các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, kể cả việc mua sắm,
sửa chữa tài sản cố định bằng vốn sự nghiệp.
11
- Các dự án đầu tư của cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp được hỗ trợ từ vốn nhà nước theo quy định của
pháp luật.
- Chương trình mục tiêu, dự án đầu tư công khác theo quyết định của Chính
phủ.
Như vậy, ở cách quan niệm này, đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của các
doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước không nằm trong đầu tư công. Song cũng
không thể coi nó là đầu tư tư nhân, bởi vì đây là tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Vì
vậy, việc sử dụng quan niệm này thực ra không làm đơn giản hơn cách phân loại và
quản lý đầu tư của Nhà nước. Trước hết, nó đòi hỏi phải bổ sung thêm khái niệm
“đầu tư nhằm mục đích kinh doanh của các đơn vị thuộc khu vực nhà nước”, bên
cạnh các khái niệm “đầu tư tư nhân” và “đầu tư công”. Sau nữa, nó làm cho quá
trình phân loại để thống kê trở nên phức tạp hơn. Chẳng hạn, một con đường, nếu
được đầu tư bằng vốn ngân sách thì sẽ thuộc loại đầu tư công, nhưng nếu thực hiện
bằng vốn “xã hội hóa” - tức là do cộng đồng hoặc tư nhân bỏ vốn đầu tư - sẽ thuộc
đầu tư tư nhân, còn nếu có cả sự hỗ trợ vốn của chính phủ thì sẽ rất khó phân định
đó là đầu tư công hay đầu tư tư nhân (Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang Thái, 2011).
Hiện tại “đầu tư công” vẫn được quan niệm một cách đơn giản hơn: đó là bao
gồm tất cả các khoản đầu tư do chính phủ và các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế
nhà nước tiến hành. Trong quan niệm này, đầu tư công được xét không phải từ góc độ
mục đích (có sản xuất hàng hóa công cộng hay không, có mang tính kinh doanh hay
là phi lợi nhuận) mà từ góc độ tính sở hữu của nguồn vốn dùng để đầu tư. Cụ thể là
đầu tư công là đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước theo quy định của pháp luật hiện
hành, bao gồm: Vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của các doanh nghiệp
nhà nước và các vốn khác do Nhà nước quản lý (Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang
Thái, 2011).
1.2.1.2. Nguồn vốn đầu tư
12
Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế thì nguồn vốn đầu tư bao gồm hai loại sau:
nguồn trong nước tiết kiệm được và nguồn từ nước ngoài đưa vào. Nguồn từ nước
ngoài đưa vào có thể dưới dạng: đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, các khoản vay nợ
và viện trợ, tiền kiều hối và thu nhập do nhân tố từ nước ngoài chuyển về. Có thể
chia vốn đầu tư làm 2 loại là đầu tư của khu vực doanh nghiệp và cá nhân (khu vực
tư) và đầu tư của khu vực nhà nước (khu vực công).
Nguồn vốn đầu tư của khu vực tư: trên lý thuyết thì nguồn vốn đầu tư của
khu vực (Ip) được hình thành từ tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và của cá nhân
(Sp) và luồng vốn của nước ngoài đổ vào khu vực này (Fp):
Ip = Sp + Fp
Sp = Ypd – Cp
Trong đó: Ypd là thu nhập khả dụng;
Cp là tiêu dùng cá nhân và hộ gia đình
Nguồn tiết kiệm của khu vực doanh nghiệp và cá nhân thường là nguồn chủ
yếu trong nền kinh tế. Nguồn vốn của nước ngoài đổ vào khu vực tư thường ở các
dạng như đầu tư trực tiếp (FDI) và các khoản nợ.
Nguồn vốn đầu tư của khu vực công: nguồn đầu tư của nhà nước (Ig) được
xác định theo công thức sau:
Ig = (T – Cg) + Fg
Trong đó: T là các khoản thu của khu vực nhà nước;
Cg là các khoản chi tiêu của khu vực nhà nước không kể chi đầu tư.
Chênh lệch giữa khoản thu và chi này là tiết kiệm của khu vực nhà nước;
Fg là các khoản viện trợ và vay nợ từ nước ngoài vào khu vực nhà nước.
Dựa vào đẳng thức trên, ta thấy đầu tư của khu vực nhà nước được tài trợ bởi
ba nguồn vốn:
Thứ nhất là khả năng huy động vốn của khu vực nhà nước từ khu vực doanh
nghiệp và cá nhân hoặc tổ chức tài chính trung gian. Hình thức huy động này được
thực hiện việc phát hành trái phiếu, kỳ phiếu của nhà nước.
13
Thứ hai là tiết kiệm của khu vực nhà nước, bằng các khoản thu về ngân sách
nhà nước trừ cho các khoản chi thường xuyên. Trong trường hợp các nước kém phát
triển thì khoản tiết kiệm này rất khiêm tốn, không đủ đáp ứng nguồn vốn đầu tư lớn
cho phát triển, nhất là vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng.
Thứ ba là nguồn vốn giúp đỡ từ nước ngoài. Nguồn này có vai trò khá quan
trọng đối với các nước kém phát triển. Các nguồn từ nước ngoài thường dưới dạng
viện trợ hoặc nợ.
1.2.1.3. Đối tượng đầu tư
Trong một nền kinh tế, tư bản tồn tại dưới nhiều hình thức và vì vậy cũng có
nhiều loại đầu tư. Có 2 loại đầu tư chính sau:
- Đầu tư vào tài sản cố định: là đầu tư vào nhà xưởng, máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải… Đầu tư dưới dạng này chính là đầu tư nâng cao năng lực sản
xuất. Khả năng đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hay thấp phụ thuộc nhiều
đầu tư loại này.
- Đầu tư vào tài sản lưu động: tài sản lưu động là những nguyên vật liệu thô,
bán thành sản phẩm được sử dụng hết sau mỗi quá trình sản xuất. Ngoài ra, tài sản
lưu động cũng có thể là thành phẩm được đơn vị sản xuất đó sản xuất ra mà chưa
đem đi tiêu thụ hết. Như vậy, lượng đầu tư vào loại tài sản này chính là sự thay đổi
về khối lượng của các hàng hóa này trong thời gian nhất định. Và khi đơn vị sản
xuất, kinh doanh đầu tư vào loại tài sản này, sẽ tiết kiệm chi phí sản xuất bằng cách:
(1) đầu tiên để tiết kiệm thời gian và chi phí quản lý, giao tiếp và phân phối; (2)
đồng thời nhằm đảm bảo vật tư sản xuất luôn sẵn có khi cần.
Xét trên tổng thể nền kinh tế thì có một dạng đầu tư vào các tài sản cố định rất
quan trọng, đó là đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phần lớn lượng đầu tư vào cơ sở hạ
tầng do nhà nước đảm nhận. Tuy nhiên, trong nền kinh tế nhiều thành phần thì khu
vực tư nhân và khu vực nước ngoài cũng tham gia vào đầu tư, kinh doanh cơ sở hạ
tầng bằng các hình thức thích hợp (ví dụ như BOT, BTO, BT,…). Đặc điểm của đầu
tư vào các loại hàng hóa công là nhu cầu vốn lớn, lâu thu hồi vốn nên thường do
14
nhà nước đảm trách. Tuy nhiên, đầu tư vào kết cấu hạ tầng có tác động thúc đẩy đầu
tư của các thành phần kinh tế khác phát triển.
1.2.2. Các quan điểm về đầu tư công
1.2.2.1. Quan điểm của trường phái Tân cổ điển
Quan điểm của trường phái này cho rằng nhà nước không nên can thiệp vào nền
kinh tế trong quá trình phân bổ nguồn lực như vốn và lao động... mà sự vận động của
thị trường sẽ thực hiện tốt hơn vai trò này. Trường phái này khẳng định một trong các
ưu điểm kinh tế thị trường là sự phân bổ nguồn lực một cách tự động. Đầu tư là một
hình thức phân bổ nguồn lực trong các hình thức đó – phân bổ vốn trong nền kinh tế.
Theo lý thuyết này, trong nền kinh tế các đơn vị sản xuất trong quá trình tìm đến
điểm tối đa hóa lợi nhuận sẽ tìm kiếm cơ hội đầu tư tốt nhất cho chính mình, chính vì
thế nhà nước không cần can thiệp để tạo ra một cơ cấu đầu tư hợp lý cho doanh nghiệp
vì bản thân doanh nghiệp biết rõ hơn ai hết là cần phải làm gì để đạt lợi ích tốt nhất cho
chính doanh nghiệp. Tổng hợp tất cả các đơn vị sản xuất này trong nền kinh tế sẽ hình
thành một cơ cấu đầu tư của một nền kinh tế và đây là cơ cấu hợp lý theo lập luận trên.
Như vậy trong trường hợp này vai trò của nhà nước chỉ dừng lại ở mức là cung cấp các
hàng hóa công cộng cần thiết cho nền kinh tế như kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng xã hội, vì đây là loại hàng hóa mà khi thị trường tự vận động sẽ không đáp ứng
được. Giả định của trường phái Tân cổ điển là thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Đây là
thị trường mà người bán và người mua không có khả năng kiểm soát giá và họ không
có đầy đủ thông tin về thị trường không những trong hiện tại mà cả ở tương lai.
1.2.2.2. Quan điểm ủng hộ sự can thiệp của nhà nước
Quan điểm này cho rằng do sự không hoàn hảo của thị trường, nhất là các nước
đang phát triển, nên sự tự thân vận động của thị trường sẽ không mang lại kết quả tối
ưu. Thông tin không hoàn hảo có thể dẫn đến sản xuất và đầu tư quá mức. Trong
trường hợp này, nhà nước phải là người tổ chức cung cấp thông tin đáng tin cậy để thị
trường hoạt động tốt hơn. Mặt khác, ở hầu hết các nước đang phát triển, nền kinh tế
còn lạc hậu, phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp, nếu để thị trường tự thân vận động thì
sẽ không thể tạo ra sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ được, mà chuyển dịch cơ cấu là