Đặc điểm ngôn ngữ thơ bích khê

  • 54 trang
  • file .pdf
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA: VĂN HỌC VÀ NGÔN NGỮ
CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
CẤP TRƯỜNG NĂM 2013
Tên công trình:
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ BÍCH KHÊ
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI: TRẦN THỊ DIỆU TÂM
LỚP: 11601
KHÓA: 2011-2015
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH
Thành phố Hồ Chí Minh, 2013
MỤC LỤC
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH .......................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ...................................................................................................................... 2
NỘI DUNG
Chương 1: Tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Bích Khê................... 6
1.1. Khái lược về cuộc đời ......................................................................................... 6
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Bích Khê ........................................................................ 6
Tiểu kết ......................................................................................................................... 12
Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê ............................................................ 13
2.1. Đặc điểm ngữ âm ................................................................................................... 13
2.2. Đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa................................................................................ 22
2.3. Đặc điểm cú pháp ................................................................................................... 25
2.4. Đặc điểm tu từ ........................................................................................................ 29
Tiểu kết ......................................................................................................................... 40
Chương 3: Phong cách ngôn ngữ thơ Bích Khê ......................................................... 41
3.1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính ................................................................................... 41
3.2. Ngôn ngữ thơ huyền diệu ....................................................................................... 44
3.3. Ngôn ngữ thơ lõa thể .............................................................................................. 45
Tiêu kết ......................................................................................................................... 49
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 52
1
TÓM TẮT CÔNG TRÌNH
Nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật nói chung và ngôn ngữ thơ nói riêng là
một hướng đi cần thiết để đi sâu vào nghiên cứu ngôn ngữ học. Đầu những năm
ba mươi thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam diễn ra một cuộc vận động mạnh
mẽ, làm xuất hiện hàng loạt các nhà thơ mới với cá tính sáng tạo độc đáo với
những tác phẩm đặc sắc. Nằm trong mạch vận động đó, Bích Khê được đánh
giá là một trong những cây bút có những cách tân mới lạ về ngôn ngữ thơ.
Song, cho đến thời điểm hiện tại, những công trình nghiên cứu một cách toàn
diện và chuyên sâu về đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê vẫn không nhiều.
Thông qua việc miêu tả và phân tích một cách có hệ thống, đầy đủ các đặc
điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê trong hai tập thơ “Tinh hoa” và “Tinh huyết”,
mục đích của công trìnhlà góp phần làm rõ thêm những nét mới mẻ, hiện đại
trong nghệ thuât sử dụng ngôn từ của Bích Khê, làm nổi bật phong cách sáng
tác độc đáo của nhà thơ cũng như vẻ đẹp của ngôn ngữ trong hoạt động hành
chức của nó trên tinh thần tiếp thu thành quả của những nhà nghiên cứu đi
trước.
Trong công trình nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng các phương pháp
miêu tả, phân tích tu từ và so sánh đối chiếu nhằm làm rõ các đặc điểm ngôn
ngữ thơ Bích Khê thể hiện qua các đặc điểm về mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ
nghĩa, ngữ pháp và đặc điểm tu từ. Trong đó, phương pháp phân tích tu từ được
sử dụng chủ yếu để làm rõ đặc điểm ngôn ngữ thơ, những đặc điểm này góp
phần nhận diện phong cách thơ Bích Khê đồng thời ghi nhận những nỗ lực
cách tân của ông trong Thơ mới, cũng như trong thơ ca hiện đại Việt Nam.
Công trình nghiên cứu đã miêu tả và phân tích một cách có hệ thống và
đầy đủ các đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê. Khảo sát hai tập thơ “Tinh hoa”
và “Tinh huyết”, các đặc điểm về mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp
và đặc điểm tu từ được làm rõ, trong đó đặc điểm ngữ âm và đặc điểm tu từ có
những con số thống kê cụ thể. Bên cạnh việc khảo sát hai tập thơ trên,chúng tôi
còn khảo sát các tập thơ của những tác giả cùng thời Bích Khê như Hàn Mặc
Tử, Chế Lan Viên,… để đưa ra con số thuyết phục nhằm làm nổi bật các đặc
điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê so với các nhà thơ Mới khác. Thông qua việc làm
rõ những điểm mới mẻ, hiện đại trong cách sử dụng ngôn từ của Bích Khê,
công trình đã làm nổi bật phong cách thơ ông và khẳng định những đóng góp
của nhà thơ trong hành trình cách tân thơ ca Việt Nam hiện đại.
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Tình hình nghiên cứu thơ Bích Khê chia làm ba giai đoạn: trước
1945, từ 1945 đến 1986 và từ 1987 đến nay. Ở mỗi giai đoạn đều có
những nhà phê bình chủ chốt, những nhà nghiên cứu, những người sáng
tác đại diện cho lớp lớp độc giả say mê thơ ông. Nhìn chung, các bài viết
ở cả ba giai đoạn trên đều tập trung khám phá thơ Bích Khê trên nhiều
phương diện như thi pháp, thế giới nghệ thuật, ngôn ngữ thơ… Trong
đó, ngôn ngữ thơ Bích Khê là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu, nhà
phê bình như Chế Lan Viên, Trần Đình Sử, Lê Đình Kỵ, Đỗ Lai Thúy…
đề cập đến nhưng chưa có tác giả nào bao quát đầy đủ các đặc điểm
ngôn ngữ thơ Bích Khê. Thông qua việc miêu tả và phân tích một cách
có hệ thống, đầy đủ các đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê, đề tài góp
phần làm rõ thêm những nét mới mẻ, hiện đại trong nghệ thuât sử dụng
ngôn từ, làm nổi bật phong cách sáng tác độc đáo của nhà thơ cũng như
vẻ đẹp của ngôn ngữ trong hoạt động hành chức của nó trên tinh thần
tiếp thu thành quả của những nhà nghiên cứu đi trước.
Đề tài này nằm trong chuỗi nghiên cứu về phong cách sáng tác của các
nhà thơ trong cuộc đổi mới mạnh mẽ của nền văn học Việt Nam đầu
những năm ba mươi của thế kỉ XX.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Các nghiên cứu về Bích Khê hầu như chỉ giới hạn trong phạm vi
trong nước.
Nhìn trên tổng thể, lịch sử nghiên cứu thơ Bích Khê có thể chia làm
ba giai đoạn: trước 1945, từ 1945 đến 1986 và từ 1987 đến nay. Ở mỗi
giai đoạn đều xuất hiện những cây bút phê bình chủ chốt, những nhà
nghiên cứu, những người sáng tác đại diện cho lớp lớp độc giả say mê
thơ ông.
 Trước Cách mạng, ý kiến bàn về thơ Bích Khê không nhiều lắm.
ngoài những bài báo lẻ, đáng chú ý nhất là bài viết bàn về Bích
Khê của Hoài Thanh – Hoài Chân in trong Thi nhân Việt Namvà
lời đề tựa tập thơ Tinh huyết: Bích Khê – thi sĩ thần linh của Hàn
Mặc Tử.
 Trong thời kì chiến tranh, do hoàn cảnh lịch sử mà việc nghiên
cứu thơ Bích Khê chủ yếu diễn ra ở miền Nam trong đó nổi bật
lên một số bài viết sau đây: Người em Bích Khê của Lê Ngọc
Sương – 1966; Nhạc và họa trong thơ Bích Khê của Đinh Cường
– 1963; Nhân nhớ Bích Khê và đọc thơ Bích Khê bàn về thơ
tượng trưng của Tam Ích – 1964; Một kết tinh ảo diệu của Đinh
3
Hùng – 1967; Tinh huyết của Bích Khê của Lê Huy Anh – 1974;
Thế giới tượng trưng của Bích Khê của Lê Kim Thịnh – 1974…
 Sau thời kì đổi mới, Bích Khê và thơ Bích Khê lại được chú ý
trên thi đàn. Hàng loạt bài viết với những kiến giải, phân tích khá
sâu sắc và thấu đáo nối tiếp nhau xuất hiện. Tiêu biểu là các công
trình: Thơ Bích Khê của Chế Lan Viên – 1987; Bích Khê – sự
thức nhận ngôn từ của Đỗ Lai Thúy – 1994; Bích Khê - truyền
thống và cách tân của Lê Đình Kỵ - 1997; Tư duy thơ Bích Khê -
nhìn từ các trạng thái của cái tôi trữ tình của Hồ Thế Hà – 2006;
Ngôn ngữ thân thể trong thơ Bích Khê của Trần Đình Sử -
2006… cùng các nghiên cứu có giá trị khác của các nhà nghiên
cứu trong cả nước đến nay.
Song song với các công trình nghiên cứu trên là Hội thảo khoa học về
thơ Bích Khê do Hội nhà văn Việt Nam kết hợp với Hội văn học nghệ
thuật Quảng Ngãi tổ chức khai mạc ngày 20 tháng 2 năm 2006. Tham gia
Hội thảo có hơn 40 bản tham luận từ khắp trong nước, nhiều bản tham luận
có chất lượng chuyên môn cao, chủ yếu tập trung phân tích những điểm
độc đáo của Bích Khê trong phong trào Thơ mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài:
Nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn các đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích
Khê về mặt ngữ âm, từ vựng – ngữ nghĩa, ngữ pháp và đặc điểm tu từ.
Tìm hiểu rõ hơn về phong cách ngôn ngữ thơ Bích Khê, đặc biệt là
những nỗ lực cách tân thơ và vị trí của Bích Khê trong phong trào Thơ
mới 1932 – 1945.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
a) Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên lý thuyết ngôn ngữ học nói chung và ngôn ngữ
thơ nói riêng để tìm hiểu nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ Bích
Khê
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận về quá trình sáng tạo và cách tân thơ
ca để khẳng định vị trí của Bích Khê trong phong trào Thơ mới.
b) Phương pháp nghiên cứu
Với đề tài này, cần sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
 Phương pháp miêu tả
 Phương pháp phân tích tu từ
 Phương pháp so sánh đối chiếu
5. Giới hạn của đề tài:
Bài nghiên cứu khảo sát toàn bộ thơ Bích Khê in trong hai tập
Tinh huyết và Tinh hoa. Trong đó, chúng tôi tập trung nghiên cứu đặc
4
điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê, bao gồm: đặc điểm ngữ âm, từ vựng –
ngữ nghĩa, ngữ pháp và đặc điểm tu từ. Những đặc điểm này góp phần
nhận diện phong cách thơ Bích Khê đồng thời ghi nhận những nỗ lực
cách tân của ông trong Thơ mới, cũng như trong thơ ca hiện đại Việt
Nam.
6. Đóng góp mới của đề tài:
Nghiên cứu về ngôn từ nghệ thuật thơ Bích Khê, chúng tôi mong
muốn chỉ ra những nét độc đáo trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ, từ đó
góp phần nhận diện phong cách thơ Bích Khê.
Ngoài ra, đề tài còn góp phần làm nổi bật thêm những đóng góp
tích cực của Bích Khê trong tiến trình hiện đại hóa thi ca Việt Nam giai
đoạn 1932 – 1945.
7. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn:
a) Ý nghĩa lý luận
Đề tài làm rõ đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê, từ đó góp phần
nhận diện phong cách thơ ông. Đề tài cũng góp phần nghiên cứu về
phong cách sáng tác của các nhà thơ trong cuộc đổi mới mạnh mẽ
của nền văn học Việt Nam đầu những năm ba mươi của thế kỉ XX.
b) Ý nghĩa thực tiễn
Nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê góp phần bổ sung
tư liệu về mảng nghiên cứu ngôn ngữ thơ của các nhà Thơ mới nói
chung và nghiên cứu về ngôn ngữ thơ Bích Khê nói riêng; làm nền
tảng cho việc mở rộng nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê
về sau.
8. Kết cấu đề tài:
Chương I: Tổng quan về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Bích Khê
1.1. Khái lược về cuộc đời Bích Khê
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Bích Khê
Chương II: Đặc điểm ngôn ngữ thơ Bích Khê
2.1. Đặc điểm ngữ âm
2.1.1. Vần
2.1.2. Nhịp điệu
2.1.3. Thanh điệu
2.2. Đặc điểm từ vựng – ngữ nghĩa
2.2.1. Lớp từ địa phương được sử dụng như một nét phong cách của
Bích Khê
2.2.2. Các từ ngữ tập trung vào các trường nghĩa cảm nhận
2.3. Đặc điểm cú pháp
2.4. Đặc điểm tu từ
2.4.1. Phép so sánh
5
2.4.2. Phép ẩn dụ
2.4.3. Phép điệp
Tiểu kết
Chương III: Phong cách ngôn ngữ thơ Bích Khê
3.1. Ngôn ngữ thơ giàu nhạc tính
3.2. Ngôn ngữ thơ huyền diệu
3.3. Ngôn ngữ thơ lõa thể
Tiểu kết
Kết luận
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA
BÍCH KHÊ
1.1. Khái lược về cuộc đời Bích Khê
Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương, sinh ngày 24/3/1916 tại quê ngoại,
xã Phước Lộc, quận Sơn Tịnh, nhưng lớn lên tại quê nội thị xã Thu Xà, xã
Nghiã Hoà, Quảng Ngãi. Mất ngày 17/1/1946, tại Thu Xà.
Là con út trong gia đình tám anh chị em (4 chị, 3 anh), cha là Lê Mai Khê
một nhà Nho mất sớm và mẹ là bà Phạm Thị Đoan.Thủa nhỏ Bích Khê học ở
Thu Xà, rồi Đồng Hới và lên trung học vào trường dòng Pellerin Huế. Sau ra
Hà Nội học tú tài, ban Triết. Năm 1934, Bích Khê bỏ học, cùng người bạn vào
Phan Thiết mở trường tư, vừa dạy vừa sáng tác trong 2 năm (1934-1936). Mắc
bệnh phổi từ 1935 (19 tuổi). Phải điều trị ở bệnh viện lao Pasquier, Huế, trong
hơn một năm (1936-1937). Năm 1938,ông trở lại Phan Thiết mở trường dạy
học lần thứ nhì (1938-1939) và xuất bản tập thơ đầu tiên:Tinh huyết (1939) do
Hàn Mặc Tử viết tựa.
Năm 1941, ông về Huế dạy học, được ít lâu, bệnh phổi tái phát, lại phải
trở vào bệnh viện Pasquier điều trị lần thứ nhì, vào năm 1942. Ông mất năm
1946, ở tuổi ba mươi.
Bích Khê làm thơ từ năm 15 tuổi (1931), theo các thể cổ điển như: Đường
luật, từ khúc, hát nói, đăng trên các báo Tiếng dân (Huế), Phụ nữ tân văn (Sài
Gòn), và Đông Tây (Hà Nội). Khoảng năm 1936, Bích Khê chuyển sang Thơ
mới. Tập Tinh huyết (1939), là tác phẩm duy nhất được in khi Bích Khê còn
sống.
1.2. Sự nghiệp sáng tác của Bích Khê
1.2.1. Các tác phẩm
Bích Khê bước vào làng thơ rất sớm, khi còn ở tuổi thiếu niên.Từ những
năm 1931-1932, ông đã có thơ đăng ở báo “Tiếng dân”. Cho đến cuối năm
1936, nhiều bài được sáng tác theo các lối Đường luật, từ khúc và hát nói của
7
ông đều đặn xuất hiện trên mặt báo này, và đăng rải rác ở một số báo khác như
“Phụ nữ Tân Văn”, “tuần báo Đông Tây” dưới các bút danh Lê Mộng Thu,
Bích Khê. Tuy tuổi đời tác giả còn trẻ, nhưng nhiều bài thơ của ông đã đạt đến
trình độ già dặn, và được nhiều bậc túc Nho tán thưởng.Hấp thụ truyền thống
yêu nước của gia đình, đồng thời chịu ảnh hưởng của cụ Phan Bội Châu, “thơ
cũ” của Bích Khê nằm trong xu hướng văn chương “ưu thời mẫn thế” vào
những năm đầu thế kỷ 20.
Năm 1936, Bích Khê bắt đầu bước vào dòng xoáy của “Thơ mới”.Điều đó
không có gì lạ trong xu thế đổi mới tất yếu của thơ ca Việt Nam đương thời, mà
Hàn Mặc Tử cũng là một trường hợp tiêu biểu. Có lạ chăng là một khi đã
chuyển hướng, Bích Khê muốn vượt lên đi đến một cuộc “Duy tân” (tên một
bài thơ nổi tiếng của ông) thật mạnh mẽ, sâu sắc và táo bạo đối với thi ca. Để
làm việc này, Bích Khê đã tìm đến các trường phái thi ca hiện đại của Phương
Tây cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20: chủ nghĩa lãng mạn, chủ nghĩa tượng trưng,
chủ nghĩa siêu thực. Đặc biệt ông chịu ảnh hưởng của mỹ học Baudelaire mà
ông tôn làm “Vua thi sĩ” (“Người ăn mày” – “Tinh huyết”). Nhưng ông không
dừng ở đó, mà còn tiếp biến nhiều quan điểm nghệ thuật khác của các nhân vật
cự phách thuộc các trường phái nói trên: Rimbaud, Verlaine, Mallarmé v.v…
Tuy nhiên, trong khi hướng mạnh về phương Tây, Bích Khê vẫn giữ những
mối liên hệ mật thiết, bền chặt với các truyền thống văn hóa, văn học phương
Đông và dân tộc. Lý Bạch của Trung Quốc, Hồ Xuân Hương và Tản Đà của
Việt Nam vẫn để những dấu vết sâu đậm trong thơ ông.Và nếu Hàn Mặc Tử
tìm nguồn cảm hứng trong Thiên Chúa giáo, thì Bích Khê đến với Phật giáo và
Đạo giáo.
Tất cả những điều này chi phối mạnh mẽ hoạt động sáng tác của Bích
Khê, nhất là trong thời gian đầu của quá trình chuyển hướng sang Thơ mới, mà
kết quả là sự ra đời của tập thơ “Tinh huyết” vào cuối năm 1939.
Sau “Tinh huyết”, mặc dù trong tình trạng sức khỏe ngày càng suy giảm
nhưng Bích Khê vẫn tiếp tục sáng tác. “Tinh huyết” là cả một bầu máu nóng
của tuổi trẻ với những ưu điểm, nhược điểm của nó. Sự háo hức đi tìm cái mới
lạ, sự sôi nổi trong cảm hứng sáng tạo, một mặt đem lại sức sống và tính độc
8
đáo cho các bài thơ, nhưng mặt khác có lúc cũng dẫn đến những gì còn sượng,
chưa nhuần nhị. Có thể nói đó mới là một cuộc thử nghiệm táo bạo.Đến “Tinh
hoa”, sự bồng bột ban đầu lắng xuống, những cái gì quá đà được gạn lọc để
hiện lên một Bích Khê chín chắn hơn, cả về tâm hồn lẫn nghệ thuật. Một sự so
sánh những bài thơ trong dạng ban đầu trong “Tinh huyết”, với những văn bản
đã được sửa đổi của chúng in trong tập “Tinh hoa” sẽ cho ta thấy một phần
quan trọng của sự chuyển hướng ấy. Trong sự kết hợp Đông – Tây, nếu trước
kia ảnh hưởng của phương Tây có phần mạnh hơn, thì bây giờ yếu tố phương
Đông trỗi dậy để tạo ra sự hài hòa trong nội dung cũng như trong hình thức.
Nói cách khác, “Tinh hoa” là một cuộc trở về; trở về với những lối thơ truyền
thống cùng những âm hưởng quen thuộc, nhưng cấu trúc không hoàn toàn như
cũ; trở về với cách nghĩ, điệu cảm quen thuộc nhưng với một tâm trạng của con
người thời đại mới. Tuy nhiên ông vẫn giữ một sự nhất quán về những quan
niệm nghệ thuật cơ bản của mình.
1.2.2. Về chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Bích Khê
1.2.2.1. Vài nét về chủ nghĩa tượng trưng
Chủ nghĩa tượng trưng là một trào lưu nghệ thuật và là một quan điểm
triết học - mỹ học xuất hiện cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX.Vì thế, nó là một
thuật ngữ nhiều nghĩa để chỉ một trào lưu không thuần nhất. Tháng 9 năm
1886, chủ nghĩa tượng trưng ra đời ở Pháp với bản “Tuyên ngôn tượng trưng”
của Jean Moreas đề xuất một quan niệm thi ca mới nhằm phản ứng lối thơ thiên
về chạm trổ, trau chuốt ngôn từ của phái Thi sơn (Parmasse) và cách làm thơ
quá dễ dãi của trường phái lãng mạn. Họ quan niệm: thi ca tượng trưng biểu
hiện trước hết “những tư tưởng nguyên uỷ”, nó là kẻ thù của “sự mô tả khách
quan”. Hình tượng tượng trưng là đa nghĩa, bất định, nó ghi nhận sự tồn tại của
“khu vực bí ẩn” (Mallarmé), của “những cái vô hình và những thế lực định
mệnh” (Maeterlinck), thơ “trước hết phải có nhạc tính” do âm nhạc hơn hẳn
các nghệ thuật khác trong việc truyền đạt những sắc thái, những bán âm
(Verlaine). Quan niệm tượng trưng như là hình tượng có khả năng không chỉ
biểu đạt những sự tương hợp của các khách thể và hiện tượng mà trước hết có
khả năng truyền đạt “nội dung thể nghiệm của ý thức” (A, Belyi). Do vậy, ở
9
những tác phẩm tượng trưng, biểu tượng vật thể thực được đan bện chặt với các
thủ pháp ấn tượng. Vai trò chủ đạo trong nhận thức và sáng tác nghệ thuật của
chủ nghĩa tượng trưng là trực giác - được đồng nhất với sự bừng ngộ thần bí,
với sự khải thị, với trạng thái kích động cao. Ta có thể rút ra những điểm nổi
bật của chủ nghĩa tượng trưng như sau:
1- Về nguyên tắc mỹ học: Nếu như thơ lãng mạn chủ yếu biểu hiện
bằng hình tượng, hình ảnh tương phản thì thơ tượng trưng biểu hiện mối quan
hệ giữa con người và sự vật trong mối tương hợp. Mỹ học tượng trưng cũng
quan niệm giữa vũ trụ và con người có một mối tương quan bí ẩn. Mối tương
giao, tương hợp này diễn ra trên nhiều mặt. Có sự tương giao về ý niệm: hư -
thực, có sự tương giao về cảm giác: ánh sáng - bóng tối, có sự tương giao về
không gian: ngang - dọc, có sự tương giao về màu sắc: đen - trắng, có sự tương
giao về màu vị: trong - ngọt…
2- Về quan niệm thơ: Chủ nghĩa tượng trưng xem thơ như một thứ siêu
cảm giác, không giải thích được. Thơ phải gắn chặt với âm nhạc, phải gợi chứ
không vẽ các đường nét, hình thể (Verlaine).Nghĩa là thơ không cần có hình
tượng rõ nét, và được quan niệm như một bản hoà âm huyền ảo.Mỗi từ trong
thơ phải gắn liền với một nốt nhạc.
3- Về đặc điểm thơ tượng trưng: Chủ nghĩa tượng trưng xem thế giới
hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới mà ta
không nhìn thấy được. Đây mới chính là bản thể của thế giới.Cho nên, nhà thơ
phải đến với cuộc sống bằng trực giác vì chỉ có trực giác mới tìm ra cái bí ẩn
nằm sau thế giới hữu hình, mới nhìn thấy thế giới đích thực là cái thế giới
không nhìn thấy ấy.
4- Về mặt ngôn từ và phương thức thể hiện: Thơ tượng trưng dùng biểu
tượng như là một cấu tạo hình tượng đặc biệt để chống lại lối miêu tả và biểu lộ
tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Nói cách khác, chủ nghĩa tượng
trưng tôn trọng điều bí ẩn của thơ.Họ tránh dùng miêu tả mà dùng những từ gợi
lên ý nghĩa.Tức là dùng biểu tượng như là một phương tiện biểu hiện.
Đến thời kỳ cuối, thơ tượng trưng rơi vào hình thức chủ nghĩa, mấp mé
giữa đường ranh nghệ thuật và phi nghệ thuật bằng lối thơ hũ nút, kín mít.Điều
10
này khiến thơ tượng trưng rơi vào tình trạng phi giao tiếp, có tính chất loại bỏ
sự giao tiếp của người đọc.
1.2.2.2. Những yếu tố tượng trưng nổi trội trong thơ Bích Khê
Bích Khê là một nhà thơ tượng trưng tiêu biểu cho phong trào Thơ
mới. Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam nhận định: “Bích Khê và ít người
nữa như Xuân Sanh muốn đi tới chỗ người ta thường cho là cao nhất trong thơ
tượng trưng” [12, tr.1]. Tác giả Lê Huy Oanh cho rằng: “Trong thế kỉ XX, nhất
là thời tiền chiến, tại Việt Nam, hiện tượng thơ tượng trưng nổi bật trong các
thi phẩm của thi sĩ danh tiếng như Phạm Hầu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử,
Đinh Hùng và nhất là Bích Khê” [9, tr.1]. Năm 1997, trong bài viết Bích Khê –
truyền thống và cách tân, giáo sư Lê Đình Kỵ cũng đồng tình: “Thành tựu nổi
bật nhất của nhà thơ (chỉ Bích Khê) là gắn với lối thơ tượng trưng” [6, tr.1].
Baudelaire là người mở đầu trường phái tượng trưng Pháp. Năm 1887
tập thơ “Những bông hoa ác” của Baudelaire ra đời đã làm chấn động dư luận
Pháp và ông bị tòa kết án vì tội đã thi vị hóa cái Xấu, cái Ác. Đặc điểm này ảnh
hưởng không nhỏ đến các nhà thơ mới Việt Nam trong quá trình sáng tác của
họ, trong đó có Bích Khê. Qua những sáng tác của mình, Bích Khê thực sự đã
thi vị hóa cái hoá cái tội lỗi, nhuốc nhơ, rùng rợn thành cái cao siêu, nhơn đức,
thơm tho, khoái lạc, tiêu biểu cho quan điểm này là bài thơ Sọ người. Những
hình ảnh mà Bích Khê sử dụng trong Sọ người: một “khối mộng” cho “hồn thơ
chếnh choáng”, một “buồng xuân hơ hớ”, “một bình vàng”, “chén ngọc đầy
hương”, cả một hồ trăng lấp loáng ẩn chứa ở đó cả một sự sống đầy tình thương
“người chứa một trời thương”. Nhan đề bài thơ đã không thể chi phối cái sức
sống đầy “người chứa trời thương” ấy, nếu không phải là cách thi vị hóa của
chủ nghĩa tượng trưng thì đã không thể viết nên một “Sọ người” như thế.
Một đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa tượng trưng là đề cao âm nhạc
trong thơ vì họ quan niệm âm nhạc là nghệ thuật cao siêu nhất. Nếu Xuân Diệu
có “Nhị hồ”, Nguyễn Xuân Sanh có “Tiếng địch” là những tác phẩm đề cao
nhạc tính trong thơ thì Bích Khê lại có cả một gia tài nhạc thơ vô cùng đặc sắc.
Nhạc tính nổi bật nhất trong thơ Bích khê là nhạc tính của thơ bình thanh.Với
tập “Tinh huyết” (1939), Bích Khê có hẳn ba bài thơ bình thanh: “Hoàng hoa”,
11
“Tỳ bà” và “Nghê thường”, chưa kể những câu thơ bình thanh nằm đều khắp
trong tập thơ. Lối thơ bình thanh của Bích Khê là một sự cách tân thể loại thơ
ca truyền thống, những niêm luật cũ bị phá vỡ bởi thế đối lập thanh điệu: cao -
thấp, bằng – trắc. Đây là bước khám phá âm thanh độc đáo giúp thi nhân thâm
nhập sâu vào đối tượng thẩm mỹ, lắng nghe được tiếng thì thầm của lòng mình,
sinh khí êm đềm của ngoại giới.Với thơ bình thanh, Bích Khê đã khẳng định
được sức mạnh kỳ diệu của vỏ âm thanh ngôn ngữ - cái mà người ta thường nói
qua loa, thậm chí không để ý đến.Tuy nhiên nhạc tính trong thơ Bích Khê
không phải chỉ thể hiện ở thơ bình thanh mà còn hiện lên ở nhiều thủ pháp
nghệ thuật khác. Ngoài sự khai thác giá trị âm thanh ngôn ngữ ở mặt thanh
điệu: cao – thấp, bằng – trắc,… Bích Khê còn chú ý đến các yếu tố âm thanh
ngôn ngữ cùng với hình thức điệp từ, điệp khúc… Những thủ pháp này xuất
hiện nhiều trong các bài: Tiếng đang mưa, Thi vị …Nhạc tính trong thơ Bích
Khê còn thể hiện ở nhịp điệu, tiết tấu thơ. Với Bích Khê, sự dừng hơi trong ngữ
lưu cũng là một phương tiện nghệ thuật tân kỳ.
Nguyên tắc mỹ học của chủ nghĩa tượng trưng như đã nói ở trên là sự
tương giao, tương hợp. Baudelaire quan niệm: Vũ trụ là một thể thống nhất,
trong đó tất cả đều tương ứng với nhau. Có sự tương ứng giữa tự nhiên và cái
siêu nhiên, có sự tương ứng giữa thế giới này với thế giới đằng sau đầy bí ẩn,
đặc biệt là sự tương ứng giữa các giác quan “Mùi hương, màu sắc và âm thanh
tương giao cùng nhau”, “Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con, ngọt
ngào như tiếng sáo, xanh mượt như cỏ non” (Baudelaire - Tương ứng).
Thơ Bích Khê là sự một sự tương giao tổng thể.Tương giao giữa thiên
nhiên, con người, thơ, hoạ và nhạc, hương, vị... và cả mọi giác quan khác. Sự
tương giao giữa vũ trụ và con người: “Gió đa tình hôn”, “Gió đi chới với”,
“mặt hoa thơm tho mùi thịt”, “người thiếu nữ hiện trong trăng”, “da thịt ý
tuyết băng”, “mát như xuân”, “người lộ mỏng như sương”, “khung trắng trời
mây trắng”. Rồi đến sự tương ứng giữa các giác quan: “thơm tho mùi thịt”,
“da thịt phô bày”, “ngọt tợ hương”, “rào rạt nỗi cảm thương”. Đến sự tương
ứng về màu sắc: “khung trắng”, “khăn hồng”, “màu trăng”, “mây trắng”,
“màu lưng chừng trời”, “màu phơi nơi nơi”, “màu ôm vai gầy”… Nhìn trên
12
tổng thể có thể nhận thấy thơ Bích Khêchịu sự ảnh hưởng của nguyên tắc mĩ
học và chủ nghĩa tượng trưng sâu sắc, sự tương giao trong thơ Bích Khê đan
chéo, bện chặt thể hiện nét độc đáo mà Bích Khê dày công sáng tạo nhằm đưa
thơ mình đến gần nhất với quan niệm của chủ nghĩa tượng trưng về nguyên tắc
mĩ học.
Nhìn chung, những yếu tố tượng trưng nổi trội trong thơ Bích Khê là
cách thi vị hóa cái Xấu, cái Ác, đề cao âm nhạc và sự tương giao, tương hợp
trong thơ. Những yếu tố này góp phần tạo nên một diện mạo mới cho thơ Bích
Khê trong giai đoạn này.
Tiểu kết
Ở chương 1 chúng tôi đã điểm qua hai nội dung cơ bản là cuộc đời Bích
Khê và sự nghiệp sáng tác của ông, trong đó chú trọng đến việc giới thiệu
những sáng tác của Bích Khê cùng với những yếu tố tượng trưng nổi trội trong
thơ ông. Việc làm này nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản về quá trình sáng
tác của Bích Khê để thuận lợi cho việc tìm hiểu nội dung chính của đề tài là đặc
điểm ngôn ngữ của nhà thơ. Đây là cơ sở lí thuyết để chúng tôi triển khai phần
trọng tâm của đề tài trong những chương sau.
13
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ THƠ BÍCH KHÊ
2.1. Đặc điểm ngữ âm
Nhìn từ phương diện ngữ âm tiếng Việt, ba thành tố cơ bản cầu thành
nên nhạc điệu của một bài thơ là vần, nhịp điệu và thanh điệu. Khác với văn
xuôi, thơ ca đòi hỏi yêu tố ngữ âm phải được tổ chức một cách có hệ thống,
phải tạo được sự cộng hưởng cao độ giữa âm thanh và ý nghĩa, vì thế mà khi đề
cập đến đặc điểm ngôn ngữ thơ thì đặc điểm ngữ âm được đưa lên hàng đầu.
So với các nhà thơ cùng thời như Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên… Bích
Khê tuy không có tuyên ngôn rõ ràng, nhưng khảo sát toàn bộ thơ ca của ông
có thể thấy ông rất có ý thức cách tân thơ, ít nhất là về mặt hình thức mà cụ thể
là ở phương diện ngữ âm. Trên cái nền thơ ca truyền thống, Bích Khê thêm vào
đó cái tôi sáng tạo của mình từ cách hiệp vần, cách tổ chức nhịp điệu hay cách
hòa phối thanh điệu để từ hình thức ngôn từ ấy, nội dung thơ Bích Khê đến gần
hơn với người đọc. Hiển nhiên, không phải câu thơ nào, bài thơ nào của Bích
Khê cũng thành công về mặt ngữ âm nhưng nhìn chung, Bích Khê đã có những
dấu ấn và đóng góp to lớn trong quá trình đổi mới hình thức thơ ca ở Việt Nam
khi thơ ông xuất hiện cách đây đã hơn năm 70 năm.
2.1.1 Vần
2.1.1.1. Khái niệm vần trong thơ
Theo tác giả Mai Ngọc Chừ [2, tr.1], vần là sự hòa âm cộng hưởng theo
những qui định ngữ âm nhất định giữa hai từ hoặc hai âm tiết ở trong hay cuối
dòng thơ và thực hiện những chức năng nhất định như liên kết các dòng thơ gợi
tả, nhấn mạnh sự ngừng nhịp.
Xét từ hình thức thơ ca, việc liên kết giữa các dòng thơ là yếu tố cơ bản
để hình thành một bài thơ. Chính sự “khắc khe” về mặt hình thức ấy đòi hỏi các
14
nhà thơ phải nắm rõ hệ thống niêm luật của thơ ca truyền thống đồng thời phải
có những cánh tân độc đáo góp phần đổi mới hình thức thơ ca Việt Nam
Trong Tiếng việt, vần được xác lập bởi nhiều tiêu chí khác nhau. Xét về
vị trí các tiếng hiệp vần chia ra vần chân, vần lưng. Theo mức độ hòa âm giữa
các âm tiết hiệp vần có vần bằng và vần trắc. Ngoài ra, dựa vào lý thuyết độ
vang của ngôn ngữ học, người ta còn có thể chia vần thành vần mở, vần khép,
vần nửa mở, nửa khép.
Trên nền hệ thống niêm luật thơ ca truyền thống, các nhà thơ mới đã bộc
lộ cái tôi của mình bằng những cách tân độc đáo, nhiều cách hiệp vần sáng tạo
đã khẳng định tên tuổi của họ và đóng góp không nhỏ trong quá trình cách tân
hình thức thơ ca Việt Nam.
2.1.1.2. Cách hiệp vần trong thơ Bích Khê :
Tuy không có một tuyên ngôn rõ ràng nhưng những gì Bích Khê thể
hiện trong thơ mình đã phần nào cho thấy khả năng tổ chức ngữ âm trong thơ
của ông hoàn toàn vượt bậc. Vần được xác lập trên cơ sở nhiều tiêu chí khác
nhau nhưng khi khảo sát toàn bộ thơ Bích Khê, điểm nổi bật và đặc trưng nhất
của thơ ông là việc sử dụng vần chân và vần lưng vô cùng sáng tạo và hiệu quả.
Xem xét vị trí của 1550 cặp trong hai tập thơ “Tinh Huyết” và “Tinh
Hoa”, kết quả thu được như sau :
Bảng 2.1. Số lượng và tỉ lệ loại vần ( xét theo vị trí ) trong hai tập thơ Tinh
huyết và Tinh hoa của Bích Khê
Loại Vần Số Lượng Tỉ Lệ
Vần Chân 1395 90%
Vần Lưng 155 10%
Số liệu thống kê ở bảng trên cho thấy Bích Khê sử dụng linh hoạt hai
loại vần này trong đó vần chân chiếm ưu thế. Vần chân trong thơ Bích Khê có
15
vai trò rất lớn trong việc tạo nên âm hưởng cho lời thơ góp phần biểu đạt cảm
xúc. Lấy cách gieo vần trong bài “Chùa Ông Thu Xà” là một ví dụ:
Mây trắng bay về núi Thạch chưa
Chúa Ông chim hót ở ngoài mưa
Ngồi trên gò mả nghe chuông vọng
Sắc cỏ thơm mùi kinh sách xưa.
Ở đây việc gieo vần chân là hoàn toàn hợp lí để biểu đạt cảm xúc của
bài thơ có cái gì đó nhớ nhung mà không bi lụy, tha thiết mà không rời thực tế,
cứ như thế mạch thơ là một chuỗi những hình ảnh cộng gộp vào nhau nhưng rõ
ràng, thực tế tạo nên một bức tranh chan chứa tình yêu quê hương xứ sở.
Ở thể thơ tám chữ, Bích Khê sử dụng vần chân gián cách nhịp nhàng:
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gường hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng lòng nghe hương nằng nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ.
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ…
(Mộng cầm ca)
Còn sự sắp xếp nào tinh tế hơn việc sử dụng lối điệp câu thơ trong một
khổ thơ để gieo vần chân gián cách như Bích Khê làm trong đoạn thơ trên. Cả
đoạn thơ là một chùm liên tưởng nhẹ nhàng với những ý niệm về màu sắc, mùi
hương thú vị. Hãy xem Bích Khê tiếp tục thành công ở thể thơ 7 chữ với “Nghê
thường”:
16
Ô trời hôm nay sao mà xanh!
Ngọc trăng xây vàng lên muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương
Dạ lan tê ngời say men hương.
Điểm độc đáo trong cách gieo vần này chính là ý niệm về màu sắc, mùi
vị đi liền với nhau, cả đoạn thơ là một sự tung hứng nghệ thuật hiệu quả dựa
trên niêm luật truyền thống.
Với gia tài thơ đủ thể loại, Bích Khê dùng vần chân làm thành những
mắt xích liên tục gắn nối khiến mạch thơ miên man, lời thơ tuôn chảy nhịp
nhàng. Việc sử dụng các âm tiết mang thanh bằng cũng khiến chất nhạc trong
thơ Bích Khê từ đó lan tỏa âm vang. Ngoài vần chân, vần lưng cũng được Bích
Khê sử dụng trong hai tập thơ “Tinh huyết” và “Tinh hoa”:
Đây giây trinh bạch khóc sướt trong mơ
Đây hồn ngọc thạch xanh sao như tờ ?
Ôi cỏi lầu mây ách gì kim cương
Áo nàng thơ ngây nao nao nghê thường
Thơ bay ! Thơ bay vôn bàn tay ngà
Thơ ngà ngà say ? Thơ ngà ngà say…..
(Nhạc)
Bích Khê tạo nên một âm hưởng độc đáo trong thể thơ 8 chữ của mình,
vừa cổ điển vừa lại hết sức tân kì, tạo nên hiệu quả cao trong việc cộng hưởng
giữa âm thanh và ý nghĩa.
Nhìn chung xét về vị trí hiệp vần trong thơ Bích Khê có thể thấy vần
chân được sử dụng chiếm ưu thế và được phát huy cao độ về hiệu quả nghệ
thuật. Vần lưng dù ít được sử dụng nhưng lại rất có giá trị khi được Bích Khê
17
sử dụng để tạo một âm hưởng độc đáo: vừa cổ điển vừa tân kì. Có thể thấy
Bích Khê từng bước đổi mới hình thức thơ mà cơ sở là đổi mới cách gieo vần
gắn liền với ý niệm và trường liên tưởng.
2.1.2. Nhịp điệu
2.1.2.1. Khái niệm nhịp điệu trong thơ
Nhịp điệu là mặt ngữ âm không thể thiếu để cấu thành một tác phẩm văn
học dưới hình thức thơ ca. Nó là kết quả hòa phối âm thanh do ngắt nhịp mang
lại, giữ vai trò nòng cốt tạo nên tiết tấu của nhạc thơ.
Nếu văn xuôi đòi hỏi cách tổ chức đoạn hợp lí thì trong thơ ca, cách ngắt
nhịp là yếu tố tiên quyết. Cùng với vần nhịp là một yếu tố cơ bản đảm bảo sự
liên kết trong kết cấu văn bản ngôn từ một bài thơ trữ tình. Mỗi thể loại thơ ứng
với cách ngắt nhịp khác nhau để đảm bảo một sự hài hòa nhất định mang tính
đặc trưng từng thể loại, tạo được mối quan hệ giữa Nhịp điệu – Nhạc thơ –
Cảm xúc.
Nhìn trên tổng thể, thơ Bích Khê cách tân chủ yếu ở nhịp điệu thơ với
đủ mọi thể loại. Nhịp điệu trong thơ Bích Khê đa dạng và phong phú.
2.1.2.2 Nhịp điệu trong thơ Bích Khê
Bích Khê có cả gia tài các thể loại thơ: Thơ lục bát (Mĩ Tửu Ca, Huế Đa
Tình) song thất lục bát (Tiếng Đàn Mưa, Giọt lệ trích tiên), Thơ tám chữ
(Mộng cầm ca, Tranh lõa thể, Sắc Đẹp), Thơ bảy chữ (Sầu lãng tử, Nghê
Thường), Thơ ngũ ngôn (Ngũ Hành Sơn, Tiền – hậu)… Mỗi bài thơ là một sự
đầu tư chuẩn mực về mặt ngữ âm, chúng không lặp lại nhau mà tăng tiến, phát
triển thành những dấu ấn riêng, mỗi bài thơ của Bích Khê là một trải nghiệm
mới cho người đọc.
Trong tập thơ “Tinh huyết”, Nhạc gần như là bài thơ tập hợp những cách
tân táo bạo nhất của Bích Khê. Ở thể thơ 8 chữ, ông chọn ngắt nhịp ở chữ thứ
tư, chia câu thơ bát cú thành hai thể tứ tuyệt:
18
Ôi nắng vàng thơm/… rung rinh điệu ngọc
Những cánh hồng đơm,/ những canh hồng đơm
Nhẹ nhàng, nhịp nhàng/ thở đều trong sương
Màu trăng không gian/ như gờn gợn sóng
Từ ở phương mô/ nhạn mang thơ về
Đàn thơ cơ hồ/ lên cung âm điệu
Đây dây trinh bạch/ khóc suốt trong mơ
Đây hồn ngọc thạch/ xanh sao như tờ?
Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã tinh tế khi nêu nhận xét “Cách ngắt nhịp
này của Bích Khê khiến người đọc có cảm tưởng là hai bài thơ tứ tuyệt xếp
cạnh nhau. Tuy nhiên hiệu quả thực tế của bài thơ đã không như vậy. Có lẽ sức
mạnh của nhạc điệu tân kì, của ý tưởng mới mẻ đã cuốn phăng cảm xúc của
người đọc không kịp để cho anh ta có đủ thì giờ nhớ đến thể tứ ngôn cũ” [13,
tr.1]. Ở một thể thơ khác. Bích Khê chọn cách ngắt nhịp truyền thống kết hợp
với cách gieo vần tạo nên những câu thơ đầy nhạc tính.
Không gian tơ/ không gian tơ/ gợn sóng
Âm Thanh gì/ sắp sửa/ Ngọc Kiều ơi!
Hay hơi thở/ của hoa hồng/ mơ mộng
Hay buồn đêm/ rào rạt/ ứ muôn nơi?
(Mộng cầm ca)
Lam nhung/ ô! Màu lưng chừng trời;
Xanh nhung/ ô! Màu phơi nơi nơi.
(Hoàng hoa)