Các cam kết về thuế khi việt nam gia nhập wto

  • 32 trang
  • file .doc
Các cam kết về thuế khi Việt Nam gia nhập WTO
Lời Mở Đầu
Ngày 7/11/2006, tại Geneve (Thụy Sĩ) đã diễn ra trọng thể Lễ ký Nghị định thư
về việc Việt Nam được chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) được đánh giá là sự kiện quan trọng nhất có tác động cực kì to lớn tới
kinh tế Việt Nam.Sự kiện này mở ra cơ hội mới cho sự phát triển đất nước và cả
những thách thức cần phải vượt qua khi Việt Nam được tham gia vào tổ chức
thương mại lớn nhất toàn cầu.
Như đã biết , Việt Nam chúng ta được đánh giá là 1 nước đang phát triển và
thực sự , chúng ta mới chỉ thoát khỏi khủng hoảng và lệ thuộc kinh tế hơn chục
năm.Đối với đấu trường kinh tế giới , các sân chơi dường như còn quá xa vời và
cao lớn với tầm vóc nền kinh tế Việt Nam.Việc chúng ta gia nhập WTO ko
mang ý nghĩa thúc đẩy ngay việc phát triển kinh tế những năm đầu này mà mang
ý nghĩa quyết định cho tương lai của nền kinh tế Việt Nam mai sau.Vậy để
chuẩn bị tốt cho sân chơi WTO , sẵn sang hội nhập vào biển kinh tế thế giới mà
vẫn giữ cho chúng ta “ hòa nhập chứ ko hòa tan “ , tránh bị khủng hoảng và lệ
thuộc kinh tế cũng như giữ vững được lập trường chính trị , thể chế ; chúng ta
cần 1 lộ trình dài và chắc chắn nhằm giúp kinh tế Việt Nam tránh sock và có thể
hòa nhập trong ổn định với thị trường thương mại lớn nhất Thế Giới này.
Thuế là nguồn thu chính của ngân sách nhà nước Việt Nam.Khi gia nhập WTO ,
điều kiện tiên quyết là phải gỡ bỏ gần như hoàn toàn hệ thống thuế với hàng
nhập khẩu của các nước thành viên WTO.Chúng ta không thể đi ngược lại quy
định chung của WTO , 1 mình 1 luật được , đã chấp nhận gia nhập WTO là
chúng ta phải chấp nhận luật chơi của họ , không ưu đãi , không nhượng bộ.Với
1 sân chơi như vậy , việc gia nhập quá nhanh sẽ khiến nguồn ngân sách nhà
1
nước Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng nặng nề , gây xáo trộn toàn bộ nền kinh
tế vốn bị chi phối bởi ngân sách nhà nước.WTO đã chấp nhận cho chúng ta
được phép có 1 khoảng thời gian ổn định và cắt giảm dần hàng rào thuế quan để
gia nhập 1 cách toàn diện vào hệ thống WTO.Trước khó khăn và thác thức như
vậy , Việt Nam chúng ta đã làm gì và cần làm gì để có 1 lộ trình gỡ bỏ hàng rào
thuế quan 1 cách an toàn và chắc chắn đối với nền kinh tế của mình
2
I. Giới Thiệu Chung Về WTO
1.WTO là gì ?
WTO là tên viết tắt từ tiếng Anh của Tổ chức thương mại thế giới (World
Trade Organization). WTO được thành lập theo Hiệp định thành lập Tổ chức
thương mại thế giới ký tại Marrakesh (Marốc) ngày 15/4/1994. WTO chính thức
đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1995.
Có thể hình dung một cách đơn giản về WTO như sau:
 WTO là nơi đề ra những quy định
WTO là nơi đề ra những quy định để điều tiết hoạt động thương mại giữa
các quốc gia trên quy mô toàn thế giới hoặc gần như toàn thế giới. Đến nay,
WTO có tất cả 150 thành viên.
 WTO là một diễn đàn để các nước, các thành viên đàm phán
Bản thân sự ra đời của WTO là kết quả của các cuộc đàm phán. Sau khi ra
đời, WTO đang tiếp tục tổ chức các cuộc đàm phán mới. "Tất cả những gì tổ chức
này làm được đều thông qua con đường đàm phán". Có thể nói, WTO chính là
một diễn đàn để các quốc gia, các thành viên tiến hành thoả thuận, thương lượng,
nhân nhượng nhau về các vấn đề thương mại, dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ..., để
giải quyết tranh chấp phát sinh trong quan hệ thương mại giữa các bên.
 WTO gồm những quy định pháp lý nền tảng của thương mại quốc tế
Ra đời với kết quả được ghi nhận trong hơn 26.000 trang văn bản pháp lý,
WTO tạo ra một hệ thống pháp lý chung làm căn cứ để mỗi thành viên hoạch
định và thực thi chính sách nhằm mở rộng thương mại, tạo thêm việc làm, tăng
thu nhập và nâng cao đời sống nhân dân các nước thành viên. Các văn bản pháp
lý này bản chất là các "hợp đồng", theo đó các chính phủ các nước tham gia ký
kết, công nhận (thông qua việc gia nhập và trở thành thành viên của WTO) cam
3
kết duy trì chính sách thương mại trong khuôn khổ những vấn đề đã thoả thuận.
Tuy là do các chính phủ ký kết nhưng thực chất mục tiêu của những thoả thuận
này là để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà sản xuất hàng hoá, cung
cấp dịch vụ, các nhà xuất nhập khẩu thực hiện hoạt động kinh doanh, buôn bán
của mình.
 WTO giúp các nước giải quyết tranh chấp
Nếu "mục tiêu kinh tế" của WTO là nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hoá thương
mại hàng hoá, dịch vụ, trao đổi các sáng chế, kiểu dáng, phát minh...(gọi chung là
quyền tài sản sở hữu trí tuệ) thì các hoạt động của WTO nhằm giải quyết các bất
đồng và tranh chấp thương mại phát sinh giữa các thành viên theo các quy định đã
thoả thuận, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của công pháp quốc tế và luật lệ của
WTO, chính là mục tiêu chính trị của WTO. Mục tiêu cuối cùng của các mục tiêu
kinh tế và chính trị là nhằm tới "mục tiêu xã hội" của WTO là nhằm nâng cao mức
sống, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người dân, phát triển bền vững, bảo
vệ môi trường.
2. Mục tiêu của WTO :
 Nâng cao mức sống, bảo đảm đầy đủ việc làm và một khối lượng thu
nhập và nhu cầu thực tế lớn và phát triển ổn định; mở rộng sản xuất, thương mại
hàng hoá và dịch vụ, trong khi đó vẫn đảm bảo việc sử dụng tối ưu nguồn lực
của thế giới theo đúng mục tiêu phát triển bền vững, bảo vệ và duy trì môi
trường và nâng cao các biện pháp để thực hiện điều đó theo cách thức phù hợp
với những nhu cầu và mối quan tâm riêng rẽ của mỗi bên ở các cấp độ phát triển
kinh tế khác nhau.
 Bảo đảm rằng các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là những quốc gia
kém phát triển nhất, duy trì được tỷ phần tăng trưởng trong thương mại quốc tế
tương xứng với nhu cầu phát triển kinh tế của quốc gia đó;
 Giảm đáng kể thuế và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo
hướng loại bỏ sự phân biện đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế;
4
 Xây dựng một cơ chế thương mại đa biên chặt chẽ, ổn định và khả thi
hơn; quyết tâm duy trì những nguyên tắc cơ bản và tiếp tục theo đuổi những
mục tiêu đang đặt ra cho cơ chế thương mại đa biên này.
3. Chức năng của WTO :
Theo ghi nhận tại Ðiều III, Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế
giới, WTO có 5 chức năng sau:
- WTO tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi, quản lý và điều hành và
những mục tiêu khác của Hiệp định thành lập WTO, các hiệp định đa biên của
WTO, cũng như cung cấp một khuôn khổ để thực thi, quản lý và điều hành việc
thực hiện các hiệp định nhiều bên;
- WTO là một diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về
những quan hệ thương mại đa biên trong khuôn khổ những quy định của WTO.
WTO cũng là diễn đàn cho các cuộc đàm phán tiếp theo giữa các thành viên về
những quan hệ thương mại đa biên; đồng thời WTO là một thiết chế để thực thi
các kết quả từ việc đàm phán đó hoặc thực thi các quyết định do Hội nghị Bộ
trưởng đưa ra;
- WTO sẽ thi hành Thoả thuận về những quy tắc và thủ tục điều chỉnh việc
giải quyết tranh chấp giữa các thành viên (''Thoả thuận'' này được quy định trong
Phụ lục 2 của Hiệp định thành lập WTO);
- WTO sẽ thi hành Cơ chế rà soát chính sách thương mại (của các nước
thành viên), ''Cơ chế'' này được quy định tại Phụ lục 3 của Hiệp định thành lập
WTO;
- Ðể đạt tới sự thống nhất cao hơn về quan điểm trong việc tạo lập các
chính sách kinh tế toàn cầu, khi cần thiết, WTO sẽ hợp tác với Quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF), Ngân hàng thế giới và các cơ quan trực thuộc của nó.
4. Những nguyên tắc, luật lệ, quy định cơ bản của WTO :
5
WTO hoạt động dựa trên một số nguyên tắc làm nền tảng cho hệ thống
thương mại thế giới, bao gồm:
4.1. Thương mại không phân biệt đối xử
Nguyên tắc này thể hiện ở hai nguyên tắc: đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN):
"Tối huệ quốc" có nghĩa là "nước (được) ưu đãi nhất", "nước (được) ưu tiên
nhất".
Nội dung của nguyên tắc: WTO quy định rằng, các quốc gia không thể
phân biệt đối xử với các đối tác thương mại của mình.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc: Mỗi thành viên của WTO phải đối xử với
các thành viên khác của WTO một cách công bằng như những đối tác "ưu tiên
nhất". Nếu một nước dành cho một đối tác thương mại của mình một hay một
số ưu đãi nào đó thì nước này cũng phải đối xử tương tự như vậy đối với tất cả
các thành viên còn lại của WTO để tất cả các quốc gia thành viên đều được "ưu
tiên nhất". Và như vậy, kết quả là không phân biệt đối xử với bất kỳ đối tác
thương mại nào.
Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT) :
"Ðối xử quốc gia" nghĩa là đối xử bình đẳng giữa sản phẩm nước ngoài
và sản phẩm nội địa.
Nội dung của nguyên tắc: Hàng hoá nhập khẩu và hàng hoá tương tự sản
xuất trong nước phải được đối xử công bằng, bình đẳng như nhau.
Cơ chế hoạt động của nguyên tắc: Bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào, sau
khi đã qua biên giới, trả xong thuế hải quan và các chi phí khác tại cửa khẩu, bắt
đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém
ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước.
6
Có thể hình dung đơn giản về hai nguyên tắc nêu trên như sau: Nếu nguyên
tắc "tối huệ quốc" nhằm mục tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa
các nhà xuất khẩu hàng hoá, cung cấp dịch vụ... của các nước A, B, C... khi xuất
khẩu vào một nước X nào đó thì nguyên tắc "đãi ngộ quốc gia" nhằm tới mục
tiêu tạo sự công bằng, không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ của doanh
nghiệp nước A với hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước X trên thị trường
nước X, sau khi hàng hoá, dịch vụ của doanh nghiệp nước A đã thâm nhập (qua
hải quan, đã trả thuế và các chi phí khác tại cửa khẩu) vào thị trường nước X.
4.2. Thương mại ngày càng tự do hơn (bằng con đường đàm phán)
Ðể thực thi được mục tiêu tự do hoá thương mại và đầu tư, mở cửa thị
trường, thúc đẩy trao đổi, giao lưu, buôn bán hàng hoá, việc tất nhiên là phải cắt
giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các hàng rào phi thuế quan (cấm, hạn chế, hạn
ngạch, giấy phép...). Trên thực tế, lịch sử của GATT và sau này là WTO đã cho
thấy đó chính là lịch sử của quá trình đàm phán cắt giảm thuế quan, rồi bao trùm
cả đàm phán dỡ bỏ các hàng rào phi thuế quan, rồi dần dần mở rộng sang đàm
phán cả những lĩnh vực mới như thương mại dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Tuy nhiên, trong quá trình đàm phán, mở cửa thị trường, do trình độ phát
triển của mỗi nền kinh tế của mỗi nước khác nhau, "sức chịu đựng" của mỗi nền
kinh tế trước sức ép của hàng hoá nước ngoài tràn vào do mở cửa thị trường là
khác nhau, nói cách khác, đối với nhiều nước, khi mở cửa thị trường không chỉ
có thuận lợi mà cũng đưa lại những khó khăn, đòi hỏi phải điều chỉnh từng bước
nền sản xuất trong nước. Vì thế, các hiệp định của WTO đã được thông qua với
quy định cho phép các nước thành viên từng bước thay đổi chính sách thông qua
lộ trình tự do hoá từng bước. Sự nhượng bộ trong cắt giảm thuế quan, dỡ bỏ các
hàng rào phi thuế quan được thực hiện thông qua đàm phán, rồi trở thành các
cam kết để thực hiện.
7
4.3. Dễ dự đoán nhờ cam kết, ràng buộc, ổn định và minh bạch
Các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo
trước được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm
bắt được lộ trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế, phi thuế của
nước chủ nhà để từ đó doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch kinh
doanh, đầu tư của mình mà không bị đột ngột thay đổi chính sách làm tổn hại tới
kế hoạch kinh doanh của họ. Nói cách khác, các doanh nghiệp nước ngoài tin
chắc rằng hàng rào thuế quan, phi thuế quan của một nước sẽ không bị tăng hay
thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực của hệ thống thương mại đa biên nhằm
yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một môi trường thương mại ổn định,
minh bạch và dễ dự đoán. Nội dung bao gồm các công việc sau:
Về các thoả thuận cắt giảm thuế quan :
Bản chất của thương mại thời WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm phán
phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi cho đối
tác của mình, sau khi đàm phán, mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi vào một
bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách khác,
ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó và
không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh nghiệp
nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng buộc chỉ
sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc tăng thuế
đó gây ra.
Về các biện pháp phi thuế quan :
Biện pháp phi thuế quan là biện pháp sử dụng hạn ngạch hoặc hạn chế định
lượng khác như quản lý hạn ngạch. Các biện pháp này dễ làm nảy sinh tệ nhũng
nhiễu, tham nhũng, lạm dụng quyền hạn, bóp méo thương mại, gây khó khăn cho
doanh nghiệp, làm cho thương mại thiếu lành mạnh, thiếu minh bạch, cản trở tự
8
do thương mại. Do đó, WTO chủ trương các biện pháp này sẽ bị buộc phải loại bỏ
hoặc chấm dứt.
Ðể có thể thực hiện được mục tiêu này, các hiệp định của WTO yêu cầu
chính phủ các nước thành viên phải công bố thật rõ ràng, công khai ("minh
bạch") các cơ chế, chính sách, biện pháp quản lý thương mại của mình. Ðồng
thời, WTO có cơ chế giám sát chính sách thương mại của các nước thành viên
thông qua Cơ chế rà soát chính sách thương mại.
4.4. Tạo ra môi trường cạnh tranh ngày càng bình đẳng hơn
Trên thực tế, WTO tập trung vào thúc đẩy mục tiêu tự do hoá thương mại
song trong rất nhiều trường hợp, WTO cũng cho phép duy trì những quy định về
bảo hộ. Do vậy, WTO đưa ra nguyên tắc này nhằm hạn chế tác động tiêu cực của
các biện pháp cạnh tranh không bình đẳng như bán phá giá, trợ cấp... hoặc các
biện pháp bảo hộ khác.
Ðể thực hiện được nguyên tắc này, WTO quy định trường hợp nào là cạnh
tranh bình đẳng, trường hợp nào là không bình đẳng từ đó được phép hay không
được phép áp dụng các biện pháp như trả đũa, tự vệ, chống bán phá giá...
4.5. Khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế bằng cách dành ưu đãi
hơn cho các nước kém phát triển nhất
Các nước thành viên, trong đó có các nước đang phát triển, thừa nhận rằng tự
do hoá thương mại và hệ thống thương mại đa biên trong khuôn khổ của WTO
đóng góp vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Song các thành viên cũng thừa nhận
rằng, các nước đang phát triển phải thi hành những nghĩa vụ của các nước phát
triển. Nói cách khác, "sân chơi" chỉ là một, "luật chơi" chỉ là một, song trình độ
"cầu thủ" thì không hề ngang nhau. Trong khi đó, hiện số thành viên của WTO là
các nước đang phát triển và các nước đang trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
chiếm hơn 3/4 số nước thành viên của WTO. Do đó, WTO đã đưa ra nguyên tắc
này nhằm khuyến khích phát triển và cải cách kinh tế ở các nước đang phát triển
và các nền kinh tế chuyển đổi bằng cách dành cho những nước này những điều
9
kiện đối xử đặc biệt và khác biệt để đảm bảo sự tham gia sâu rộng hơn của các
nước này vào hệ thống thương mại đa biên.
Ðể thực hiện nguyên tắc này, WTO dành cho các nước đang phát triển, các
nước có nền kinh tế đang chuyển đổi những linh hoạt và ưu đãi nhất định trong
việc thực hiện các hiệp định của WTO. Chẳng hạn, WTO cho phép các nước
này một số quyền và không phải thực hiện một số quyền cũng như một số nghĩa
vụ hoặc cho phép các nước này một thời gian linh động hơn trong việc thực hiện
các hiệp định của WTO, cụ thể là thời gian quá độ thực hiện dài hơn để các
nước này điều chỉnh chính sách của mình. Ngoài ra, WTO cũng quyết định các
nước kém phát triển được hưởng những hỗ trợ kỹ thuật ngày một nhiều hơn.
II. Các Cơ Hội Và Thách Thức Của Việt
Nam Khi Gia Nhập WTO
1. Cơ Hội :
- Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên
với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các nước mở
cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân biệt đối xử.
Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và trong tương
lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở rộng kinh
doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như
nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP thì điều này là
đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
- Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản lý
theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng được cải
thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng của các
thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài, qua đó
10
tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động, thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng trưởng và rút
ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày
càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công
nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao
động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên khác
trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu tranh
nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều kiện để
bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu tranh
còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và năng lực
quản lý điều hành của ta.
- Mặc dù chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể chế
kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng chính
việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến trình
cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có hiệu
quả hơn.
- Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi mới, việc
gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho ta
triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt Nam mong
muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới vì hoà bình,
hợp tác và phát triển.
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang
lại, cần thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong điều
kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước còn
11
nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất
nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá
trình hội nhập.
2. Thách Thức :
- Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện
rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm các
nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên thị
trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt giảm
từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong vòng 3
đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn.
Cạnh tranh không chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh
nghiệp với doanh nghiệp. Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước
trong việc hoạch định chính sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy
nội lực và thu hút đầu tư từ bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được
lợi thế so sánh hay không, có thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước”
trong một thế giới biến đổi nhanh chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo
được chi phí giao dịch xã hội thấp nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có
tạo dựng được môi trường kinh doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay
không…
Tổng hợp các yếu tố cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn
bộ nền kinh tế, sức cạnh tranh quốc gia.
- Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng đều.
Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi quốc
gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư được
hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy cơ
phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân hoá
12
giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an sinh
xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
- Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn
nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước sẽ tác động
mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách kinh tế vĩ mô
đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản lý phải tạo cơ sở
để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được ảnh hưởng tiêu cực
trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều kiện tiềm lực đất nước
có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm vận hành nền kinh tế thị
trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi hỏi chúng ta phải phấn đấu
vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm rất cao trước quốc gia, trước
dân tộc.
- Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi
trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế
vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó
không biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng
tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động
của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách
thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách
thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng
được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ
hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ
hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
13
phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường
của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Trước khó khăn và thách thức trên , cùng với quy định chung khi gia nhập
WTO , hệ thống thuế Việt Nam ta đã chuẩn bị những gì cho tiến trình thực hiện
cam kết thuế.
III. Cam Kết Về Thuế Của Việt Nam
Khi Gia Nhập WTO
1. Các cam kết về thuế:
Gia nhập WTO và các khu vực mậu dịch tự do, việc mở cửa thị trường
hàng hóa được thực hiện chủ yếu thông qua các cam kết về cắt giảm hàng rào
bảo hộ bằng thuế nhập khẩu và tuân thủ các nguyên tắc thương mại về không
phân biệt đối xử giữa hàng hóa xuất khẩu và hàng hóa sản xuất trong nước khi
ban hành các biện pháp chính sách trong nước. Theo nguyên tắc của WTO, các
nước thành viên chỉ được phép bảo hộ các ngành sản xuất trong nước bằng biện
pháp thuế quan, các biện pháp hạn chế định lượng hàng nhập khẩu hay trợ cấp
không được phép duy trì. Tuy nhiên, bảo hộ thông qua thuế chỉ được diễn ra ở
mức độ thấp hợp lý. Do đó, khi gia nhập WTO, Việt Nam phải thực hiện cam
kết cắt giảm thuế quan và ràng buộc không tăng thuế vượt quá mức ngưỡng đã
được thỏa thuận.
1.1.Cam kết về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia
Các thành viên WTO đồng ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3
năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với
quy định WTO. Hướng sửa đổi là đối với rượu trên 20 độ cồn ta hoặc sẽ áp dụng
14
một mức thuế tuyệt đối hoặc một mức thuế phần trăm. Đối với bia, ta sẽ chỉ áp
dụng một mức thuế phần trăm.
1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu:
1.2.1. Mức cam kết chung: Ta đồng ý ràng buộc mức trần cho toàn bộ
biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện
hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5-7 năm. Mức thuế
bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn
20,9% thực hiện trong 5-7 năm. Với hàng công nghiệp từ 16,8% xuống còn
12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5-7 năm
1.2.2. Mức cam kết cụ thể: Có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế sẽ phải cắt
giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng yếu, nhạy
cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu xây dựng, ôtô -
xe máy... vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản
phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử. Ta
đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng đối với nhóm hàng xăng dầu,
kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Ta cũng cam kết cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do theo ngành của
WTO giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp. Đây là hiệp định tự nguyện của
WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia một số ngành. Ngành mà
ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta
cũng tham gia một phần với thời gian thực hiện từ 3 – 5 năm đối với ngành thiết
bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối.
15
1.3. Một số biện pháp hạn chế nhập khẩu:
Ta đồng ý cho nhập khẩu xe máy phân phối lớn không muộn hơn ngày
31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ
thời điểm gia nhập. Tuy nhiên sẽ chỉ có một doanh nghiệp Nhà nước được
quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điếu và xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm
phán được cho hai mặt hàng này là rất cao. Với ô tô cũ ta cho phép nhập khẩu
các loại xe đã qua sử dụng không quá 5 năm
1.4. Cam kết về thuế nông nghiệp:
Việt Nam sẽ phân loại năng lực cạnh tranh cho từng ngành nông sản và xây
dựng lộ trình giảm thuế phù hợp. Một mặt, cam kết lộ trình giảm thuế mạnh đối
với những mặt hàng Việt Nam có khả năng cạnh tranh cao và đã có năng lực
xuất khẩu như gạo, cà phê. Mặt khác, cam kết lộ trình giảm thuế chậm hơn,
nhằm bảo hộ có thời hạn đối với một số mặt hàng như cao su, đồ gỗ lâm sản và
lâm sản chế biến.
Mức cam kết chung về thuế nhập khẩu, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho
toàn bộ biểu thuế. Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ mức hiện hành
17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình trong 5 - 7 năm. Mức thuế
bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5% xuống còn
20,9% thực hiện trong 5 - 7 năm.
2. Biểu cam kết thuế quan của Việt Nam trong WTO.
Trong toàn bộ Biểu cam kết, Việt Nam sẽ cắt giảm khoảng 3.800 dòng
thuế (chiếm 35,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc ở mức thuế hiện hành với
khoảng 3.700 dòng (chiếm 34,5% số dòng của Biểu thuế); ràng buộc theo mức
thuế trần – cao hơn mức thuế suất hiện hành 3.170 dòng thuế (chiếm 30% số
dòng của Biểu thuế), chủ yếu là đối với các nhóm hàng như xăng dầu, kim loại,
hóa chất, một số phương tiện vận tải. Một số mặt hàng đang có thuế suất cao từ
16
trên 20%, 30% sẽ được cắt giảm thuế ngay khi gia nhập. Những nhóm mặt hàng
có cam kết cắt giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản phẩm cá, gỗ và
giấy, hàng chế tạo khác, máy móc thiết bị điện – điện tử (xem bảng tổng hợp 1).
Đối với lĩnh vực nông nghiệp, mức cam kết bình quân là 25,2% vào thời
điểm gia nhập và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 21%. So sánh với mức thuế
MFN bình quân đối với lĩnh vực nông nghiệp hiện nay là 23,5% thì mức cắt
giảm đi sẽ là 10%. Trong lĩnh vực này, Việt Nam sẽ được áp dụng cơ chế hạn
ngạch thuế quan đối với 4 mặt hàng: trứng, đường, thuốc lá lá và muối (muối
trong WTO không được coi là mặt hàng nông sản). Đối với 4 mặt hàng này,
mức thuế trong hạn ngạch là tương đương mức thuế MFN hiện hành (trứng
40%, đường thô 25%, đường tinh 50 – 60%, thuốc lá lá: 30%, muối ăn 30%),
thấp hơn nhiều so với mức thuế ngoài hạn ngạch.
Đối với lĩnh vực công nghiệp, mức cam kết bình quân vào thời điểm gia
nhập là 16,1%, và mức cắt giảm cuối cùng sẽ là 12,6%. So sánh với mức thuế
MFN bình quân của hàng công nghiệp hiện nay là 16,6% thì mức cắt giảm đi sẽ
là 23,9%.
Các mức cắt giảm này có thể so sánh tương ứng với các mức cắt giảm
trung bình của những nước đang phát triển và đã phát triển trong vòng đàm phán
Uruguay (năm 1994) như sau: trong lĩnh vực nông nghiệp các nước đang phát
triển và đã phát triển cam kết cắt giảm là 30% và 46%; với hàng công nghiệp
tương ứng là 37% và 24% (xem bảng tổng hợp 2)
Mức độ cam kết và cắt giảm thuể của Việt Nam tổng hợp theo 1 số nhóm ngành
hàng và nhóm mặt hàng chính:
17
Bảng 1 - Mức thuế cam kết bình quân theo nhóm ngành hàng chính
Thuế suất cam kết Thuế suất cam kết cắt
Nhóm mặt hàng tại thời điểm gia giảm cuối cùng cho
nhập WTO (%) WTO (%)
1. Nông sản 25,2 21,0
2. Cá, sản phẩm cá 29,1 18,0
3. Dầu khí 36,8 36,6
4. Gỗ, giấy 14,6 10,5
5. Dệt may 13,7 13,7
6. Da, cao su 19,1 14,6
7. Kim loại 14,8 11,4
8. Hóa chất 11,1 6,9
9. Thiết bị vận tải 46,9 37,4
10. Máy móc thiết bị cơ khí 9,2 7,3
11. Máy móc thiết bị điện 13,9 9,5
12. Khoáng sản 16,1 14,1
13. Hàng chế tạo khác 12,9 10,2
Cả biểu thuế 17,2 13,4
18
Bảng 2 - Cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu theo một số nhóm mặt hàng
chính
Cam kết với WTO
Thuế
Thuế Thuế
suất
suất suất
TT Mặt hàng khi Thời hạn thực
MFN cuối
gia hiện
(%) cùng
nhập
(%)
(%)
Một số sản phẩm nông
1 nghiệp
- Thịt bò 20 20 14 5 năm
- Thịt lợn 30 30 15 5 năm
- Sữa nguyên liệu 20 20 18 2 năm
- Sữa thành phẩm 30 30 25 5 năm
- Thịt chế biến 50 40 22 5 năm
- Bánh kẹo (t/s bình quân) 39,3 34,4 25,3 3-5 năm
- Bia 80 65 35 5 năm
- Rượu 65 65 45-50 5-6 năm
- Thuốc lá điếu 100 150 135 3 năm
- Xì gà 100 150 100 5 năm
- Thức ăn gia súc 10 10 7 2 năm
19
Một số sản phẩm công
2 nghiệp
- Xăng dầu (t/s bình quân) 0-10 38,7 38,7
- Sắt thép (t/s bình quân) 17,7 13 5-7 năm
- Xi măng 40 40 32 4 năm
- Phân hóa học (t/s bình
quân) 6,5 6,4 2 năm
- Giấy (t/s bình quân) 22,3 20,7 15,1 5 năm
- Tivi 50 40 25 5 năm
- Điều hòa 50 40 25 3 năm
- Máy giặt 40 38 25 4 năm
- Dệt may (t/s bình quân) 37,3 13,7 13,7 Thực hiện
ngay khi gia
nhập (theo HĐ
dệt may đã có
với EU, US)
- Giày dép 50 40 30 5 năm
- Xe Ôtô con
+ Xe từ 2.500 cc trở lên,
chạy xăng 90 90 52 12 năm
+ Xe từ 2.500 cc trở lên,
chạy xăng, loại 2 cầu 90 90 47 10 năm
+ Xe dưới 2.500 cc, và loại 90 90 70 7 năm
20