Biện pháp tăng cường an ninh tín dụng tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương việt nam chi nhánh đông đô
- 92 trang
- file .doc
Luận văn tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng có vị trí quan trọng trong mọi nền kinh tế, đặc biệt ở các
quốc gia chưa có thị trường vốn chưa phát triển như Việt Nam. Với vai trò
là một trung gian tài chính, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa
dạng và mang tính rộng khắp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
của nền kinh tế. Nếu Ngân hàng gặp những rủi ro sẽ gây những hậu quả vô
cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội. Thực tế đã cho thấy tình hình
kinh tế của nhiều nước đã khốn đốn bởi khủng hoảng Ngân hàng ở châu Á
năm 1997- 1998. Sự đổ vỡ của quỹ tín dụng năm 1990 tại Hà Nội cũng đẩy
nền kinh tế xã hội nước ta vào tình trạng suy thoái trong một thời gian khá
dài.
Rủi ro Ngân hàng đến từ nhiều phía và cũng có nhiều loại nhưng
trong đó rủi ro tín dụng có ảnh hưởng nặng nề nhất vì trong lĩnh vực kinh
doanh của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang
lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nên rủi ro tiềm ẩn từ hoạt động này
càng lớn. Rủi ro tín dụng không chỉ gây hậu quả riêng cho hoạt động tín
dụng mà còn tác động xấu đến nhiều hoạt động kinh doanh khác trong
Ngân hàng đe dọa sự tồn tại của Ngân hàng. Chính vì vậy vấn đề đảm bảo
an toàn cho hoạt động này là một công việc không thể thiếu với bất cứ
Ngân hàng nào chứ không riêng gì Techcombank. Sau một thời gian thực
tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam- chi nhánh
Đông Đô, em nhận thấy công tác đảm bảo an ninh tín dụng tại chi nhánh
chưa đáp ứng được mục tiêu quy mô tín dụng của chi nhánh trong thời gian
tới. Do đó với mong muốn đóng góp những ý kiến của mình cho chi nhánh
qua áp dụng các kiến thức đã được học ở trường và kết quả quan sát, học
hỏi từ thực tiễn hoạt động tại chi nhánh Techcombank Đông Đô (TCB-ĐĐ)
em đã lựa chọn đề tài: “Biện pháp tăng cường an ninh tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam-Chi nhánh Đông Đô”
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Lª ThÞ Dung 1 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Nội dung quản lý an ninh tín dụng bao gồm rất nhiều vấn đề nhưng
do thời gian có hạn và những hiểu biết còn hạn chế, trong luận văn này
phạm vi nghiên cứu an ninh tín dụng sẽ được giới hạn ở những lý luận
chung về an ninh tín dụng, tình hình an ninh tín dụng thực tế ở TCB-ĐĐ từ
đó đưa ra biện pháp để tăng cường hơn nữa chất lượng công tác này tại chi
nhánh. Với kết cấu như vậy luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: An ninh tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng đảm bảo an ninh tín dụng ở chi nhánh TCB-
ĐĐ.
Chương 3: Biện pháp tăng cường an ninh tín dụng tại TCB-ĐĐ.
Lª ThÞ Dung 2 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: AN NINH TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Các hoạt động cơ bản
Từ những năm đầu của thế kỷ XV các Ngân hàng thương mại đã ra
đời. Như vậy Ngân hàng thương mại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
nhân loại. Tuy nhiên khi mới ra đời các Ngân hàng thương mại còn là các
Ngân hàng thương mại đa năng, các Ngân hàng đều có chức năng hoạt
động như nhau bao gồm: phát hành giấy bạc Ngân hàng, kinh doanh, nhận
tiền gửi của khách hàng, chiết khấu và cho vay, thực hiện các dịch vụ thanh
toán khác…với mục tiêu là lợi nhuận. Nhưng cùng với sự phát triển kinh tế
và công nghệ hoạt động ngân hàng có những bước tiến rất nhanh trở thành
những Ngân hàng thương mại chuyên doanh. Sự ra đời của hệ thống Ngân
hàng thương mại có ý nghĩa rất lớn, nó tác động sâu sắc đến quá trình phát
triển của nền kinh tế hàng hoá và ngược lại nền kinh tế tiếp tục phát triển
đến giai đoạn cao nhất của nó là kinh tế thị trường thì hoạt động của Ngân
hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và mặc nhiên Ngân hàng
là một loại hình tổ chức không thể thiếu đối với nền kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về Ngân hàng có thể qua chức năng,
các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nếu xem xét
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, Ngân hàng
thương mại được định nghĩa như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Nếu trên góc độ pháp luật, Ngân hàng thương mại được định nghĩa
dựa trên các hoạt động chủ yếu. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 20 ( số 20/2004/QH11) thì định nghĩa:
“ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan” trong đó: “
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
Lª ThÞ Dung 3 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, về cơ bản Ngân hàng thương
mại có các hoạt động chính sau:
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn
Có tổ chức huy động vốn tốt thì Ngân hàng mới tồn tại và cho vay
được- hoạt động huy động vốn là không thể thiếu với bất kỳ một Ngân
hàng thương mại muốn tồn tại và kinh doanh tốt. Làm thế nào để huy động
được nhiều vốn và vốn rẻ nhất luôn là bài toán đặt ra cho các Ngân hàng.
Một trong những nguồn huy động quan trọng là các khoản tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng. Bằng cách mở dịch vụ nhận tiền gửi để
bảo quản hộ người có tiền, Ngân hàng cam kết sẽ hoàn trả đúng hạn cho
người gửi tiền. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền
gửi, các Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Để thu hút khách hàng gửi tiền
các Ngân hàng thương mại liên tục đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, đưa ra
nhiều hình thức huy động khác nhau: tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền
gửi tiết kiệm ngắn, trung và dài hạn…đồng thời áp dụng rất nhiều hình thức
khuyến mại như: tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm đầu xuân…
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại
nhưng trong những trường hợp cần thiết cần vốn ngay, Ngân hàng thương
mại cũng có thể đi vay từ Ngân hàng Nhà Nước, các tổ chức tín dụng khác
hoặc vay trên thị trường vốn…để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng.
Tuy nhiên quy mô nguồn này không lớn.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng
Sau khi huy động được tiền gửi ngoài một phần để dành không sử
dụng dưới dạng dự trữ, Ngân hàng thương mại sử dụng vốn để cho vay đối
với nền kinh tế. Cho vay là hình thức cấp tín dụng trực tiếp cho khách
hàng. Ngân hàng sẽ giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền theo yêu
cầu của khách hàng để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định trên cơ
sở bảo đảm sẽ hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Tiền cho vay là một món
nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với
Lª ThÞ Dung 4 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Ngân hàng. So sánh với những tài sản khác, khoản mục tiền vay có tính
lỏng kém hơn vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các
khoản vay đó đến hạn thanh toán. Các khản tiền cho vay cũng có xác suất
vỡ nợ cao hơn các tài sản khác.
Hình thức cho vay rất đa dạng bao gồm nhiều loại hình phù hợp với
những nhu cầu, mục đích vay vốn khác nhau của mọi đối tượng khách
hàng. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm cả cá nhân và tổ chức thuộc mọi
thành phần kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ…tuỳ thuộc mỗi loại hình cho vay mà có thể đặt ra các yêu cầu khác
nhau đối với khách hàng. Có thể liệt kê một số điều kiện cơ bản sau: khách
hàng cần có tư cách pháp nhân hoặc giấy phép kinh doanh có hiệu lực, hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành; có phương án, dự án kinh doanh hợp pháp , khả thi, có hiệu quả; có
vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất; có khả năng hoàn trả vốn vay,
có tài sản thế chấp, cầm cố bảo đảm cho khoản vay hoặc các chứng từ có
giá hoặc được bên thứ ba bảo lãnh hoặc được vay tín chấp theo quy định
của Ngân hàng…
1.1.1.3. Hoạt động thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng không chỉ bảo
quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua
Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi
tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả
cho khách, khách hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Với
các tiện ích: an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí…thanh toán
không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng
cao thu nhập cho khách hàng. Khi Ngân hàng mở rộng chi nhánh, phạm vi
thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều
này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng nhiều hơn để nhờ
Ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, LC đã
phát triển thêm các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…
Lª ThÞ Dung 5 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.1.1.4. Hoạt động khác
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, Ngân hàng có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại khách hàng khác
nhau nên có rất nhiều kinh nghiệm về quản lý tài chính. Khách hàng coi
Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính vì vậy đã nhờ Ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển
sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư…
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: với dịch vụ môi giới
chứng khoán, Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác. Một số Ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi
giới.
Hoạt động Ngân hàng đại lý: nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Các
Ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân
hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm
Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
Ngân hàng thương mại ngày càng có vị trí như hệ thần kinh của cả
nền kinh tế. Nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng
thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay
trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều Ngân hàng mở
rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức
huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau
được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các
hình thức huy động tiền gửi, các Ngân hàng đã mở rộng các hình thức vay
như vay Ngân hàng trung ương, vay các Ngân hàng khác. Công nghệ Ngân
hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của Ngân hàng.
Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc
độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần
tiền giấy và dịch vụ Ngân hàng 24 giờ, dịch vụ Ngân hàng tại nhà đang tạo
ra các tiện ích ngày càng lớn cho cả cộng đồng.
Lª ThÞ Dung 6 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2. Hoạt động tín dụng
1.1.2.1. Vai trò của hoạt động tín dụng Ngân hàng
Nhu cầu tín dụng lúc nào cũng rất cần thiết với các tổ chức và cá
nhân trong nền kinh tế bất kể trong giai đoạn nào. Đặc biệt trong thời gian
tới khi nền kinh tế ngày càng phát triển, quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá
diễn ra mạnh mẽ thì nhu cầu đó ngày càng trở nên cấp thiết để phát triển
sản xuất kinh doanh, để doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và đi lên; để cá
nhân khẳng định chỗ đứng của mình trong xã hội. Hoạt động tín dụng là
hoạt động của tổ chức tín dụng sử dụng vốn huy động để cấp vốn cho các
cá nhân và tổ chức.
Cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của Ngân hàng. Đối với hầu
hết các Ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có
và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 1/3 tổng thu nhập của
Ngân hàng. Nhưng đi liền với điều đó là rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
cũng có xu hướng tập trung chủ yếu vào hoạt động này. Buông lỏng quản
lý,cung cấp các khoản tín dụng không minh bạch, chính sách tín dụng kém
hiệu quả hay do nền kinh tế đi xuống không lường trước được là những
nguyên nhân khiến khả năng không thu hồi được khoản vốn sẽ rất cao.
Hoạt động tín dụng có ý nghĩa không chỉ với Ngân hàng là đem lại
lợi nhuận- cơ sở cho sự tồn tại và phát triển mà đối với người đi vay và nền
kinh tế cũng có ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với người đi vay, nguồn vốn vay từ ngân hàng là tương đối dễ
tiếp cận ở mọi lúc mọi nơi vì hiện nay mạng lưới Ngân hàng đã trải khắp
các địa bàn với phương thức cho vay, thanh toán hết sức đa dạng và phong
phú. Vốn vay từ ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có, rẻ và linh
hoạt hơn nữa vì phải hoàn trả nợ cả gốc và lãi cho Ngân hàng nên sẽ kích
thích khách hàng tìm phương án kinh doanh hiệu quả để hoạt động sản xuất
kinh doanh thu được lợi nhuận cao.
Đối với nền kinh tế, với chức năng huy động vốn để cho vay hoạt
động tín dụng đóng vai trò luân chuyển vốn trong nền kinh tế, chuyển vốn
từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi có nhu cầu sử dụng để phát triển kinh
doanh, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống xã hội, Ngân hàng hoạt động
với mục tiêu lợi nhuận và an toàn nên Ngân hàng chỉ cho vay các dự án,
Lª ThÞ Dung 7 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng vốn vay có hiệu quả và khi các doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế sẽ phát triển vững chắc. Đồng
thời nhờ có khoản tín dụng Ngân hàng cấp các doanh nghiệp sẽ có đủ khả
năng tài chính để tiếp cận với công nghệ hiện đại, mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh từ đó thúc đẩy khoa học công nghệ và sản xuất hàng hoá phát
triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư, tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho người lao động.
1.1.2.2. Các loại tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các Ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng
được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Theo thời hạn: tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống) tài trợ cho
tài sản lưu động; tín dụng trung hạn (từ 1 năm đến 5 năm) tài trợ cho các tài
sản cố định; tín dụng dài hạn (trên 5 năm) tài trợ cho công trình xây dựng
như: nhà xưởng, máy móc, cầu đường…tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường
cao hơn tín dụng trung, dài hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý
nghĩa quan trọng với Ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết tới tính an
toàn và sinh lợi của tài sản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như:
kỳ hạn, tính ổn định của nguồn, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng
dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn.
Theo hình thức tài trợ gồm: cho vay, cho thuê, chiết khấu, bảo
lãnh…
- Cho vay là tài sản lớn nhất và quan trọng nhất trong khoản mục tín
dụng, là việc Ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
khách hàng sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thông qua các bảng tổng kết tài
sản của các Ngân hàng thương mại chúng ta thấy rằng cho vay luôn là
khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của Ngân hàng và là
khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho Ngân hàng đồng thời rủi ro trong
hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung cao nhất vào các khoản cho
vay.
Lª ThÞ Dung 8 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi một phần thu nhập của
Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ)
- Cho thuê: là việc Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định khách
hàng phải trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song Ngân hàng
cho phép khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi
vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị Ngân hàng cam kết trả cho khách hàng
của mình.
Theo đảm bảo gồm có: Tín dụng không có bảo đảm và có bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm thường được cấp cho khách
hàng có uy tín, làm ăn có lãi…
- Tín dụng dựa trên cam kết bảo đảm yêu cầu khách hàng và Ngân
hàng phải ký hợp đồng bảo đảm, Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá…trước
khi cho vay.
Theo rủi ro gồm: Các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình,
thấp. Cách phân loại này giúp Ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản
mục tín dụng, dự trữ quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất
lượng tín dụng.
Phân loại khác: Theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo
mục đích. Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá
trong cấp tín dụng của Ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ
mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn duy trì những lĩnh vực mà Ngân hàng có
lợi thế.
1.1.2.3. Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng của tín dụng Ngân
hàng
Mỗi Ngân hàng có quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng khác nhau,
phụ thuộc chủ yếu vào:
Các đặc trưng thuộc lĩnh vực dịch vụ Ngân hàng cung cấp: Các
Ngân hàng cung cấp những khoản tín dụng cho khách hàng trong lĩnh vực
Lª ThÞ Dung 9 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Nếu như các Ngân hàng ở ngoại thành
thường có đội ngũ khách hàng phần lớn là các hộ gia đình, các cửa hàng
nhỏ, các hộ nông dân thì khách hàng của các Ngân hàng hoạt động ở thành
phố lại tập trung vào các doanh nghiệp, những siêu thị, trụ sở công ty,
những khu chung cư với những khoản tín dụng lớn.
Quy mô Ngân hàng: Theo quy định dư nợ tín dụng cho một khách
hàng phụ thuộc vào quy mô vốn tự có của Ngân hàng. Các Ngân hàng lớn
thường cung cấp các khoản tín dụng lớn cho các doanh nghiệp và công ty
trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại chú ý vào các khoản tín dụng nhỏ cho
các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa hàng tư nhân. Như vậy, quy
mô Ngân hàng cũng là nhân tố xác định quy mô tín dụng và chủng loại tín
dụng của Ngân hàng.
Tỷ suất lợi nhuận dự tính: Nếu như các nhân tố khác không đổi,
Ngân hàng sẽ ưu tiên cấp những khoản tín dụng mang lại lợi nhuận ròng
lớn nhất sau khi đã trừ đi các chi phí và rủi ro tín dụng dự tính.Với tín
dụng thương mại và bất động sản, lợi thế lại thuộc về các Ngân hàng nhỏ;
các Ngân hàng lớn có ưu thế trong việc cấp thẻ tín dụng cho các cá nhân và
hộ gia đình. Cũng giống như quy mô tín dụng, quy mô khách hàng cũng có
ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng. Ngân hàng lớn khi cấp
tín dụng cho các khách hàng lớn thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn bởi
vì mức rủi ro tín dụng thấp và áp lực cạnh tranh cao hơn.
1.1.2.4. Chính sách tín dụng Ngân hàng
“ Chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả” là một trong những biện
pháp quan trọng để các khoản tín dụng Ngân hàng đáp ứng được các tiêu
chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán
bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn hữu hiệu để ra các quyết
định tín dụng và định hướng cho danh mục đầu tư tín dụng của Ngân hàng.
Nếu một chính sách tín dụng không hiệu quả nguy cơ dẫn đến rủi ro cho
hoạt động của Ngân hàng là rất cao.
Nội dung căn bản của một chính sách tín dụng bao gồm:
- Chính sách khách hàng: Khách hàng nhận tín dụng của Ngân hàng
rất đa dạng từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước,
cá nhân người tiêu dùng, các Ngân hàng, các công ty tài chính… tuy nhiên
Lª ThÞ Dung 10 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
cũng có một số đối tượng nhất định bị pháp luật cấm Ngân hàng cấp tín
dụng. Ngân hàng thường xuyên tiến hành phân loại khách hàng để có chính
sách tín dụng hợp lý bao gồm khách hàng truyền thống, khách hàng quan
trọng và khách hàng khác. Loại khách hàng truyền thống và quan trọng
thường được hưởng chính sách ưu đãi của Ngân hàng thương mại. Đây là
nội dung có liên quan đến chính sách Marketing nên được các Ngân hàng
hết sức quan tâm chú ý.
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Giới hạn tín dụng là
khoản tín dụng tối đa mà khách hàng có thể được nhận từ Ngân hàng. Ngân
hàng chỉ cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền hoặc hạn mức nhất
định. Ngân hàng có thể chia nhỏ các khoản vốn cấp nhiều lần cho khách
hàng và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Mức lớn nhất Ngân hàng có
thể cho vay bằng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với các điều luật quy
định dựa trên tính toán của Ngân hàng, rủi ro và sinh lời. Bên cạnh các giới
hạn được quy định trong luật các tổ chức tín dụng, mỗi Ngân hàng cũng có
những quy định riêng về quy mô và giới hạn tín dụng. Chính sách này được
quy định cho từng thời kỳ trong năm căn cứ vào quy mô và tính chất của
nguồn vốn mỗi Ngân hàng cụ thể. Mức tối đa không vượt quá giá trị tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận định
giá.
- Lãi suất và phí suất tín dụng: Lãi suất rất linh hoạt, có rất nhiều
mức phù hợp với từng thời kỳ, từng phương thức và loại cho vay mà Ngân
hàng áp dụng đối với khách hàng. Hiện nay lãi suất cho vay là lãi suất thoả
thuận giữa Ngân hàng và khách hàng phù hợp với quy định chung của
Ngân hàng Nhà Nước. Các Ngân hàng đều có chính sách lãi suất và điều
kiện cho vay ưu đãi đối với các khách hàng có uy tín tốt trong lịch sử quan
hệ tín dụng với Ngân hàng.
Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho
Ngân hàng một khoản phí tín dụng được tính bằng tỷ lệ % trên hạn mức
cam kết (gọi là phí suất tín dụng). Phí tín dụng có thể là phí bảo lãnh, phí
cam kết, phí quản lý. Phí suất được xác định chủ yếu dựa trên rủi ro (trong
bảo lãnh), trên chi phí huy động vốn (phí cam kết tài trợ) hoặc các chi phí
khác.
Lª ThÞ Dung 11 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ:
Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý Ngân hàng chú ý
bởi vì kỳ hạn liên quan tới thanh khoản và rủi ro Ngân hàng cũng như chu
kỳ kinh doanh. Chính sách tín dụng quy định rõ các Ngân hàng cung ứng
tín dụng cho khách hàng với thời hạn như thế nào. Chính sách thời hạn phải
giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn và thời hạn tài trợ từ đó Ngân
hàng xác định kỳ hạn nợ cụ thể để đảm bảo cân bằng kỳ hạn trung bình.
Ngân hàng thường dựa trên kỳ hạn của nguồn để quyết định chính sách kỳ
hạn cho vay.
Kỳ hạn nợ liên quan đến tính toán các nguồn thu của khách hàng có
thể dùng để trả nợ. Chính sách xác định cụ thể kỳ hạn nợ và tăng số lần trả
nợ trong kỳ sẽ tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kỳ hạn tín dụng trung bình,
song sẽ tăng chi phí thu nợ của Ngân hàng (nếu khách hàng không có tài
khoản tại Ngân hàng).
- Các khoản đảm bảo: Chính sách đảm bảo gồm các quy định về các
trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại
hình tín dụng, danh mục các đảm bảo được Ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ %
cho vay trên đảm bảo, đánh giá và quản lý đảm bảo. Ngân hàng cấp tín
dụng dựa trên uy tín của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng truyền
thống có quan hệ lâu bền, có uy tín, Ngân hàng cho vay không cần ký hợp
đồng đảm bảo. Ngân hàng sẽ đòi hợp đồng tài sản đảm bảo trong những
trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn. Đảm bảo có thể
bằng phương pháp cầm cố hoặc thế chấp. Các đảm bảo thường là giấy tờ có
giá, hàng hóa trong kho nhà cửa thiết bị hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
- Chính sách đối với các tài sản có vấn đề: Các tài sản có vấn đề bao
gồm các khoản nợ xấu (đã quá hạn, khó đòi hoặc không đòi được) và các
tài sản có biểu hiện đáng ngờ (chiết khấu giảm giá, các khoản bảo lãnh có
nguy cơ phải thực hiện nghĩa vụ).
Chính sách tín dụng áp dụng với các tài sản có vấn đề gồm quy định
về cách thức xác định nợ xấu (đó là các yếu tố cấu thành khoản nợ xấu) và
các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận và mức độ xấu của
khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
Lª ThÞ Dung 12 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.2. AN NINH TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Bản chất của an ninh tín dụng
Mục tiêu lớn nhất của Ngân hàng thương mại là lợi nhuận, làm sao
để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đem lại lợi nhuận lớn nhất cho
Ngân hàng là mục tiêu mà tất cả các Ngân hàng đều hướng tới tuy nhiên
khi lợi nhuận thu được càng lớn thì nguy cơ đối mặt với rủi ro càng cao
hơn nữa rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có phản ứng dây
chuyền, lây lan nhanh với những diễn biến hết sức phức tạp. Ngân hàng là
một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành
đầu tư – là đầu mối kết nối giữa các chủ thể của nền kinh tế giữa một bên là
các chủ thể có tiền và một bên là các chủ thể cần tiền vì vậy rủi ro đến với
Ngân hàng từ nhiều phía. Có những rủi ro từ bên ngoài đưa lại nhưng cũng
có những rủi ro do chủ quan của các nhà quản trị Ngân hàng gây ra.
Vì vậy song song với mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu đảm bảo an toàn
trong kinh doanh của Ngân hàng cũng được đặt lên hàng đầu đặc biệt là
trong hoạt động tín dụng, rủi ro đến từ hoạt động này gây ảnh hưởng tới
Ngân hàng nặng nề nhất và thường xuyên nhất. Rủi ro tín dụng là khả năng
xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay
không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho Ngân
hàng. Những năm gần đây công tác đảm bảo an ninh tín dụng ngày càng
được các Ngân hàng quan tâm chú ý để làm sao loại trừ bớt những ảnh
hưởng xấu do rủi ro tín dụng gây ra. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ
thể, Ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố người vay sao cho độ an toàn
là cao nhất ít có khả năng xảy ra rủi ro nhất. Tuy nhiên không một nhà kinh
doanh Ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.
Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân, hơn nữa nhiều cán bộ Ngân hàng chưa có khả năng phân tích
tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín dụng là không thể loại trừ, vấn đề là
làm sao để mức rủi ro đó xảy ra là thấp nhất chính là mục tiêu của công tác
đảm bảo an ninh tín dụng. Suy cho cùng bản chất của đảm bảo an ninh tín
dụng là giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng sinh lời cho Ngân hàng. Nghiên
cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp
Lª ThÞ Dung 13 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
tổn thất đã xảy ra là những nội dung chủ yếu của chính sách an ninh tín
dụng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ đảm bảo an ninh tín dụng
Để xác định chính xác mức độ rủi ro của các khoản vay từ đó đưa ra
các giới hạn đảm bảo an ninh tín dụng, Ngân hàng phải căn cứ vào các chỉ
tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Đối với mỗi đơn xin vay cán bộ tín dụng phải trả lời được các câu
hỏi cơ bản sau:
a. Người xin vay có thể tín nhiệm ?
Mức độ đảm bảo an ninh tín dụng phụ thuộc trước hết vào người
vay, người xin vay có thể tín nhiệm được hay không sẽ có ảnh hưởng quan
trọng đến quyết định cho vay của Ngân hàng. Để đánh giá được độ tín
nhiệm của của khách hàng, Ngân hàng thường căn cứ vào chỉ tiêu định tính
gọi là tiêu chuẩn 6C
- Character: Tư cách của người vay
Tiêu chuẩn này Ngân hàng căn cứ vào tinh thần trách nhiệm, tính
trung thực, mục đích vay rõ ràng và thiện chí trả nợ của người vay để đánh
giá. Khi cân nhắc cho vay, cán bộ tín dụng phải xem người xin vay có mục
đích tín dụng rõ ràng và thiện chí trả nợ đúng hạn đến đâu, đồng thời phải
làm rõ mục đích xin vay của khách hàng là gì. Khi mục đích xin vay đã
được xác định rõ ràng, cán bộ tín dụng còn phải xác định xem có phù hợp
với chính sách tín dụng hiện hành của Ngân hàng hay không? Thậm chí,
ngay cả khi mục đích xin vay là tốt, nếu thái độ trách nhiệm của người xin
vay trong việc sử dụng vốn không có, trả lời các câu hỏi không trung thực,
thiện chí và lỗ lực để hoàn trả nợ vay khi đến hạn không cao thì cũng
không xem xét cho vay. Nếu phát hiện thấy có dấu hiệu giả dối trong kế
hoạch sử dụng và trả nợ thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho vay ngay để
đảm bảo an toàn tín dụng cho Ngân hàng.
- Capacity: Năng lực của người vay
Năng lực hành vi và năng lực pháp lý là điều kiện cần để kí kết hợp
đồng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo rằng người xin vay có đủ
Lª ThÞ Dung 14 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
điều kiện do pháp luật quy định về tuổi tác và tư cách pháp lý thì mới được
kí hợp đồng. Người đại diện cho công ty kí kết hợp đồng cũng phải là
người được uỷ quyền hợp pháp của công ty. Vì nếu như hợp đồng tín dụng
được kí bởi người uỷ quyền không hợp pháp các khoản nợ sẽ không thu hồi
được, tiềm ẩn rủi ro với các khoản cho vay là lớn.
- Cash: Thu nhập của người vay
Thu nhập của người vay là điều kiện cơ bản tạo ra nguồn trả nợ cho
Ngân hàng vì vậy cán bộ tín dụng phải căn cứ phương án sản xuất kinh
doanh của người vay để xác định khả năng thu nhập, khả năng trả nợ của
người vay cho Ngân hàng. Khả năng tạo ra tiền của khách hàng đến từ các
nguồn: Luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập, bán thanh lý tài
sản, tiền từ phát hành chứng khoán. Bất cứ nguồn nào từ ba khả năng này
đều có thể trả nợ vay cho Ngân hàng. Cán bộ tín dụng đánh giá thêm về thu
nhập của khách hàng thông qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi sau: (i) Thu
nhập hay doanh thu có mức tăng trưởng cao trong quá khứ là rõ ràng và
chắc chắn? (ii) Liệu mức tăng trưởng cao này có được duy trì để hỗ trợ cho
việc trả nợ vay Ngân hàng ? (iii) Thu nhập hiện hành và trong quá khứ của
người vay là bằng chứng quan trọng để cán bộ tín dụng có thêm căn cứ
đánh giá chính xác.
- Collateral: Bảo đảm tiền vay
Ngân hàng quy định khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín
dụng đối với các khoản cho vay nhất định. Bởi vì khách hàng cũng luôn
gặp rủi ro trong kinh doanh, khả năng mất trả nợ cho ngân hàng là điều khó
có thể tránh khỏi. Vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, Ngân hàng
yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng để tăng thu
nhập và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Nếu rủi ro xảy ra, tài sản đảm
bảo sẽ trở thành nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập
từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Như thế khoản vay vẫn
được đảm bảo an toàn ngay cả khi hoạt động kinh doanh của khách hàng có
vấn đề.
Khi đánh giá các tài sản được đưa ra làm tài sản đảm bảo, cán bộ tín
dụng phải căn cứ các yếu tố: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng
Lª ThÞ Dung 15 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
của tài sản. Khía cạnh công nghệ cũng phải đặc biệt chú ý, vì nếu tài sản có
công nghệ lạc hậu sẽ rất khó tìm được người mua khi cần phát mại tài sản.
- Conditions: Các điều kiện
Xu hướng hiện hành về công việc, ngành nghề kinh doanh khác và
điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến cho vay kinh doanh của khách hàng;
cán bộ tín dụng cần phải đánh giá được những ảnh hưởng đó để có thể tư
vấn kinh doanh cho khách hàng. Đánh giá được các điều kiện này Ngân
hàng căn cứ vào các file dữ liệu thông tin được Ngân hàng lưu trữ, các tạp
chí, báo cáo nghiên cứu…
- Control: Kiểm soát
Tập trung vào các vấn đề: các thay đổi trong luật pháp và quy chế có
ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng
được điều kiện của Ngân hàng và của nhà quản lý về chất lượng tín dụng.
b. Hợp đồng tín dụng được ký kết đúng đắn và hợp lệ?
Hợp đồng tín dụng phải rõ ràng, phải đầy đủ các điều khoản tín dụng
cần thiết. Trước hết nội dung hợp đồng tín dụng phải đáp ứng được nhu cầu
vốn của người vay và kế hoạch trả nợ phải thuận lợi, phù hợp với chu kỳ
kinh doanh của khách hàng. Hợp đồng tín dụng phải trên cơ sở tạo điều
kiện thuận lợi nhất để người vay có khả năng thực hiện kế hoạch trả nợ, bởi
vì sự thành đạt của Ngân hàng phụ thuộc cơ bản vào sự thành công của
khách hàng. Cán bộ tín dụng phải hướng dẫn khách hàng làm đơn xin vay
hợp lệ, phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng. Đồng thời một
hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của Ngân hàng bằng
cách quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay nếu các
hoạt động này đe doạ khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Những quy
định về cưỡng chế thu hồi nợ vay cũng phải được quy định cụ thể trong
hợp đồng tín dụng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
a. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến
hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Nợ quá hạn
Lª ThÞ Dung 16 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
b. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ quá hạn
Các chỉ tiêu này đều có thể dễ dàng đo lường được. Các khoản nợ
quá hạn và nợ khó đòi là các khoản nợ xấu mà không một Ngân hàng nào
muốn có cả. Tuy nhiên đó là một thực tế mà buộc tất cả các Ngân hàng đều
phải chấp nhận, các Ngân hàng vẫn phải chấp nhận các khoản nợ xấu là
bạn đường trong kinh doanh của Ngân hàng. Nếu như các chỉ tiêu định tính
căn cứ chủ yếu vào chủ quan của cán bộ tín dụng để đánh giá an ninh tín
dụng thì các chỉ tiêu định lượng này đo lường một cách cụ thể về mức độ
an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng dựa trên các con số thống
kê thực tế mà Ngân hàng lưu giữ. Việc xác định tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó
đòi ở mức như thế nào thì đảm bảo an ninh tín dụng là tuỳ thuộc vào từng
Ngân hàng, tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động, tuỳ mục tiêu chiến lược của
mỗi Ngân hàng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể.
Có nhiều quan điểm khác nhau, cách tính toán khác nhau về kỳ hạn
nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng gây khó khăn cho
Ngân hàng trong việc đo lường an ninh tín dụng.
- Thứ nhất: do định kỳ hạn nợ không đúng
Nhiều cán bộ tín dụng đã không thực sự chú ý đến chu kỳ kinh
doanh của khách hàng khi cho vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ
đặt kỳ hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro, khi kỳ hạn nợ không phù hợp với chu
kỳ thu nhập của người vay dĩ nhiên khi đến hạn người vay sẽ không trả
được nợ gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tài chính với
người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ hoặc
phải chịu lãi suất phạt.
- Thứ hai: do đảo nợ hoặc giãn nợ
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được
đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với Ngân hàng
Lª ThÞ Dung 17 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
cấp trên hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên Ngân
hàng thoả thuận vay khoản mới để trả nợ cũ. Nhân viên tín dụng còn có thể
thực hiện giãn nợ đối với khoản nợ mà người vay chắc chắn không thể trả
được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không
phản ánh chính xác mục đích đảm bảo an ninh tín dụng.
- Thứ ba: do chính sách cho vay
Đối với các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ: cho vay
doanh nghiệp nhà nước, người nghèo,…không thể thu hồi bằng phát mại tài
sản. Khi có rủi ro xảy ra nếu như Chính phủ chưa có biện pháp giải quyết,
chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của Ngân hàng trở thành tài sản “ảo”.
Những khoản nợ này xử lý rất phức tạp. Nhiều Ngân hàng loại chúng ra
khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính
phủ đồng ý). Tuy nhiên, nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp
ngay, chúng thực sự đe doạ thu nhập của các Ngân hàng.
c. Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn, nợ khó đòi, nhà quản lý Ngân hàng còn sử
dụng các chỉ tiêu đo lường an ninh tín dụng khác: đo lường các khoản cho
vay có vấn đề, điểm của khách hàng…
- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và cũng chưa
được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên Ngân hàng
nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ
trở thành nợ quá hạn. Mỗi Ngân hàng quy định các khoản cho vay có vấn
đề theo tiêu chuẩn khác nhau. Một Ngân hàng có nhiều khoản vay có vấn
đề sẽ là dấu hiệu cho thấy an ninh tín dụng bị đe doạ.
- Điểm của khách hàng: Các Ngân hàng thường tiến hành phân tích
tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả
dự án…từ đó lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng
loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm
thấp, rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tiềm ẩn phát hiện từ việc chấm điểm khách
hàng sẽ gợi ý cho Ngân hàng những biện pháp đảm bảo an ninh tín dụng
hiệu quả hơn.
Lª ThÞ Dung 18 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.2.3.Các phương pháp đo lường an ninh tín dụng
Bản chất của an ninh tín dụng chính là nhằm hạn chế rủi ro và tăng
lợi nhuận cho Ngân hàng. Quản lý rủi ro chính là nhằm đảm bảo cho hoạt
động tín dụng được lành mạnh, an toàn hơn. Vì vậy các phương pháp đo
lường rủi ro tín dụng cũng chính là căn cứ để đo lường an ninh tín dụng
Ngân hàng.
Tháng 6/2004, uỷ ban Basel đã chính thức công bố hiệp ước Basel I
sửa đổi, được gọi là hiệp ước Basel II. Hiệp ước Basel II quy định hoàn
toàn về rủi ro, vốn và quản lý rủi ro. Cơ chế căn bản của việc duy trì một hệ
thống Ngân hàng an toàn nói chung và an ninh tín dụng nói riêng là hệ
thống tính toán vốn dự phòng bắt buộc nhạy cảm với rủi ro, có thể giúp các
Ngân hàng có hệ thống quản lý rủi ro tốt hơn, giảm được mức vốn dự
phòng bắt buộc và do đó tạo ra động lực cho các Ngân hàng nâng cao khả
năng bảo đảm an ninh tín dụng.
Sơ đồ tóm tắt các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng theo Basel II
Các phương pháp
PD: Xác suất vỡ nợ
LGD: hoá thất
ChuẩnTổn vỡ nợhoá
giảnnếu xảy raChuẩn IRR căn IRR cao
đơn ( SSA ) ( SA ) bản cấp
M: Kỳ hạn nợ
EAD: Tài sản có rủi ro tại thời điểm vỡ nợ
RRTD:
KhôngRủi ro tín dụng
có sự Hệ số rủi ro Các Dựa vào PD, LGD,
đánh giá
1.2.3.1. của pháp
Phương vào hoá giản
dựa chuẩn phương sự đánh
đơn ( SSA ) EAD, M
bên ngoài đánh giá pháp giá của dựa vào
Đây là phương bênpháp
ngoàigiống Basel
giảm I nhất về thước đo rủi
chính sựrotựtín dụng
căn bản, trong đó vốn dự phòng tốiRRTD
thiểu đối vớicác
các khoản tínđánh
NH dụnggiádoanh
nghiệp vẫn ở mức 8% là mức an ninh tín dụng được bảo đảm. Tuy nhiên nó
khác Basel I ở một số điểm:
Đối xử ưu tiên Phương Phương
- Thứ nhất, vốn dự phòng đối với các khoản tín dụng cấp cho các
với các doanh pháp giản pháp toàn
nghiệp
Chính trong
phủ sẽ hơn rủi ro tín dụngdiện
phản ánh đúng đơn thông qua việc sử dụng các
nước
Lª ThÞ Dung 19 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
kết quả xếp hạng bình quân của các cơ quan tín dụng xuất khẩu (EAC)
được công bố trên trang Web của OECD.
- Thứ hai, có một sự khác biệt trong việc cho vay của một Ngân hàng
đối với Chính phủ của mình (hoặc nắm giữ trái phiếu Chính phủ đó trong
tài khoản đầu tư). Mức vốn dự phòng tối thiểu là 0% nếu nếu khoản tín
dụng này sử dụng đồng nội tệ của Chính phủ đó, còn mức vốn dự phòng sẽ
phụ thuộc vào mức xếp hạng của EAC nếu không phải là đồng nội tệ.
- Thứ ba, phương pháp này sẽ áp dụng hệ số rủi ro tối thiểu là 35%
đối với các khoản tín dụng được bảo đảm hoàn toàn bởi nhà ở của người
vay (trong Basel I tỷ lệ này là 50%), 75% đối với các khoản vay cá nhân và
150% đối với các khoản nợ quá hạn nếu các khoản dự phòng rủi ro tín
dụng < 20%.
1.2.3.2. Phương pháp chuẩn hoá ( SA )
Phương pháp này cho phép Ngân hàng sử dụng các kết quả xếp hạng
tín nhiệm của các cơ quan xếp hạng tín dụng tư nhân cũng như các cơ quan
tín dụng xuất khẩu để đưa ra các đánh giá về rủi ro tín dụng từ đó tính toán
mức vốn dự phòng tối thiểu - mức tối thiểu để an ninh tín dụng được bảo đảm.
Basel cho phép áp dụng 4 hình thức hạn chế rủi ro, bảo đảm an ninh
tín dụng: Thế chấp, bù trừ tài sản nội bảng (bù trừ giữa các tài sản có (các
khoản tín dụng) và các tài sản nợ (các khoản tiền gửi) mà được coi là tài
sản đảm bảo), bảo lãnh của bên thứ ba và chứng khoán hoá. Riêng đối với
phương pháp chuẩn hoá (SA), Basel II còn đưa ra 2 phương pháp quản lý
tài sản thế chấp: Phương pháp giản đơn và phương pháp toàn diện.
Phương pháp giản đơn
Theo phương pháp này hệ số rủi ro của phần tín dụng được đảm bảo
bằng tài sản thế chấp sẽ có giới hạn sàn là 20%, phần còn lại của khoản tín
dụng này có hệ số rủi ro phù hợp với người vay. Tài sản thế chấp phải được
thế chấp ít nhất là trong cả kỳ hạn của khoản tín dụng và phải được đánh
giá theo giá thị trường, phải được định giá lại tối thiểu là 6 tháng/ lần thì tài
Lª ThÞ Dung 20 Ng©n hµng 44A
LỜI NÓI ĐẦU
Ngân hàng có vị trí quan trọng trong mọi nền kinh tế, đặc biệt ở các
quốc gia chưa có thị trường vốn chưa phát triển như Việt Nam. Với vai trò
là một trung gian tài chính, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất đa
dạng và mang tính rộng khắp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực
của nền kinh tế. Nếu Ngân hàng gặp những rủi ro sẽ gây những hậu quả vô
cùng nghiêm trọng đối với nền kinh tế xã hội. Thực tế đã cho thấy tình hình
kinh tế của nhiều nước đã khốn đốn bởi khủng hoảng Ngân hàng ở châu Á
năm 1997- 1998. Sự đổ vỡ của quỹ tín dụng năm 1990 tại Hà Nội cũng đẩy
nền kinh tế xã hội nước ta vào tình trạng suy thoái trong một thời gian khá
dài.
Rủi ro Ngân hàng đến từ nhiều phía và cũng có nhiều loại nhưng
trong đó rủi ro tín dụng có ảnh hưởng nặng nề nhất vì trong lĩnh vực kinh
doanh của Ngân hàng thì hoạt động tín dụng là hoạt động kinh doanh mang
lại phần lớn lợi nhuận cho Ngân hàng nên rủi ro tiềm ẩn từ hoạt động này
càng lớn. Rủi ro tín dụng không chỉ gây hậu quả riêng cho hoạt động tín
dụng mà còn tác động xấu đến nhiều hoạt động kinh doanh khác trong
Ngân hàng đe dọa sự tồn tại của Ngân hàng. Chính vì vậy vấn đề đảm bảo
an toàn cho hoạt động này là một công việc không thể thiếu với bất cứ
Ngân hàng nào chứ không riêng gì Techcombank. Sau một thời gian thực
tập tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam- chi nhánh
Đông Đô, em nhận thấy công tác đảm bảo an ninh tín dụng tại chi nhánh
chưa đáp ứng được mục tiêu quy mô tín dụng của chi nhánh trong thời gian
tới. Do đó với mong muốn đóng góp những ý kiến của mình cho chi nhánh
qua áp dụng các kiến thức đã được học ở trường và kết quả quan sát, học
hỏi từ thực tiễn hoạt động tại chi nhánh Techcombank Đông Đô (TCB-ĐĐ)
em đã lựa chọn đề tài: “Biện pháp tăng cường an ninh tín dụng tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam-Chi nhánh Đông Đô”
cho luận văn tốt nghiệp của mình.
Lª ThÞ Dung 1 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Nội dung quản lý an ninh tín dụng bao gồm rất nhiều vấn đề nhưng
do thời gian có hạn và những hiểu biết còn hạn chế, trong luận văn này
phạm vi nghiên cứu an ninh tín dụng sẽ được giới hạn ở những lý luận
chung về an ninh tín dụng, tình hình an ninh tín dụng thực tế ở TCB-ĐĐ từ
đó đưa ra biện pháp để tăng cường hơn nữa chất lượng công tác này tại chi
nhánh. Với kết cấu như vậy luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: An ninh tín dụng trong hoạt động tín dụng của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng đảm bảo an ninh tín dụng ở chi nhánh TCB-
ĐĐ.
Chương 3: Biện pháp tăng cường an ninh tín dụng tại TCB-ĐĐ.
Lª ThÞ Dung 2 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
CHƯƠNG 1: AN NINH TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Các hoạt động cơ bản
Từ những năm đầu của thế kỷ XV các Ngân hàng thương mại đã ra
đời. Như vậy Ngân hàng thương mại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử
nhân loại. Tuy nhiên khi mới ra đời các Ngân hàng thương mại còn là các
Ngân hàng thương mại đa năng, các Ngân hàng đều có chức năng hoạt
động như nhau bao gồm: phát hành giấy bạc Ngân hàng, kinh doanh, nhận
tiền gửi của khách hàng, chiết khấu và cho vay, thực hiện các dịch vụ thanh
toán khác…với mục tiêu là lợi nhuận. Nhưng cùng với sự phát triển kinh tế
và công nghệ hoạt động ngân hàng có những bước tiến rất nhanh trở thành
những Ngân hàng thương mại chuyên doanh. Sự ra đời của hệ thống Ngân
hàng thương mại có ý nghĩa rất lớn, nó tác động sâu sắc đến quá trình phát
triển của nền kinh tế hàng hoá và ngược lại nền kinh tế tiếp tục phát triển
đến giai đoạn cao nhất của nó là kinh tế thị trường thì hoạt động của Ngân
hàng thương mại cũng ngày càng được hoàn thiện và mặc nhiên Ngân hàng
là một loại hình tổ chức không thể thiếu đối với nền kinh tế.
Có nhiều cách để định nghĩa về Ngân hàng có thể qua chức năng,
các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nếu xem xét
trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp, Ngân hàng
thương mại được định nghĩa như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính
cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín
dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Nếu trên góc độ pháp luật, Ngân hàng thương mại được định nghĩa
dựa trên các hoạt động chủ yếu. Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 20 ( số 20/2004/QH11) thì định nghĩa:
“ Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn
bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan” trong đó: “
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân
Lª ThÞ Dung 3 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa, về cơ bản Ngân hàng thương
mại có các hoạt động chính sau:
1.1.1.1. Hoạt động huy động vốn
Có tổ chức huy động vốn tốt thì Ngân hàng mới tồn tại và cho vay
được- hoạt động huy động vốn là không thể thiếu với bất kỳ một Ngân
hàng thương mại muốn tồn tại và kinh doanh tốt. Làm thế nào để huy động
được nhiều vốn và vốn rẻ nhất luôn là bài toán đặt ra cho các Ngân hàng.
Một trong những nguồn huy động quan trọng là các khoản tiền gửi thanh
toán và tiết kiệm của khách hàng. Bằng cách mở dịch vụ nhận tiền gửi để
bảo quản hộ người có tiền, Ngân hàng cam kết sẽ hoàn trả đúng hạn cho
người gửi tiền. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền
gửi, các Ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách
hàng về việc sẵn sàng hy sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép
Ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Để thu hút khách hàng gửi tiền
các Ngân hàng thương mại liên tục đưa ra các mức lãi suất hấp dẫn, đưa ra
nhiều hình thức huy động khác nhau: tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền
gửi tiết kiệm ngắn, trung và dài hạn…đồng thời áp dụng rất nhiều hình thức
khuyến mại như: tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm đầu xuân…
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại
nhưng trong những trường hợp cần thiết cần vốn ngay, Ngân hàng thương
mại cũng có thể đi vay từ Ngân hàng Nhà Nước, các tổ chức tín dụng khác
hoặc vay trên thị trường vốn…để đáp ứng nhu cầu chi trả cho khách hàng.
Tuy nhiên quy mô nguồn này không lớn.
1.1.1.2. Hoạt động tín dụng
Sau khi huy động được tiền gửi ngoài một phần để dành không sử
dụng dưới dạng dự trữ, Ngân hàng thương mại sử dụng vốn để cho vay đối
với nền kinh tế. Cho vay là hình thức cấp tín dụng trực tiếp cho khách
hàng. Ngân hàng sẽ giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền theo yêu
cầu của khách hàng để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định trên cơ
sở bảo đảm sẽ hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Tiền cho vay là một món
nợ đối với cá nhân hay doanh nghiệp đi vay nhưng lại là một tài sản đối với
Lª ThÞ Dung 4 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Ngân hàng. So sánh với những tài sản khác, khoản mục tiền vay có tính
lỏng kém hơn vì chúng không thể chuyển thành tiền mặt trước khi các
khoản vay đó đến hạn thanh toán. Các khản tiền cho vay cũng có xác suất
vỡ nợ cao hơn các tài sản khác.
Hình thức cho vay rất đa dạng bao gồm nhiều loại hình phù hợp với
những nhu cầu, mục đích vay vốn khác nhau của mọi đối tượng khách
hàng. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm cả cá nhân và tổ chức thuộc mọi
thành phần kinh tế hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ…tuỳ thuộc mỗi loại hình cho vay mà có thể đặt ra các yêu cầu khác
nhau đối với khách hàng. Có thể liệt kê một số điều kiện cơ bản sau: khách
hàng cần có tư cách pháp nhân hoặc giấy phép kinh doanh có hiệu lực, hoạt
động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành; có phương án, dự án kinh doanh hợp pháp , khả thi, có hiệu quả; có
vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất; có khả năng hoàn trả vốn vay,
có tài sản thế chấp, cầm cố bảo đảm cho khoản vay hoặc các chứng từ có
giá hoặc được bên thứ ba bảo lãnh hoặc được vay tín chấp theo quy định
của Ngân hàng…
1.1.1.3. Hoạt động thanh toán
Khi khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng, Ngân hàng không chỉ bảo
quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua
Ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi
tiền không cần phải đến Ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả
cho khách, khách hàng mang giấy đến Ngân hàng sẽ nhận được tiền. Với
các tiện ích: an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí…thanh toán
không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng
cao thu nhập cho khách hàng. Khi Ngân hàng mở rộng chi nhánh, phạm vi
thanh toán qua Ngân hàng được mở rộng càng tạo nhiều tiện ích hơn. Điều
này đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng nhiều hơn để nhờ
Ngân hàng thanh toán hộ. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin,
bên cạnh các thể thức thanh toán như séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, LC đã
phát triển thêm các hình thức thanh toán mới bằng điện, thẻ…
Lª ThÞ Dung 5 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.1.1.4. Hoạt động khác
Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Do hoạt động trong lĩnh vực tài
chính, Ngân hàng có điều kiện tiếp xúc với nhiều loại khách hàng khác
nhau nên có rất nhiều kinh nghiệm về quản lý tài chính. Khách hàng coi
Ngân hàng như một chuyên gia tư vấn tài chính vì vậy đã nhờ Ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác phát triển
sang cả uỷ thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu
tư…
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: với dịch vụ môi giới
chứng khoán, Ngân hàng cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu,
trái phiếu và các chứng khoán khác. Một số Ngân hàng tổ chức ra công ty
chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán để cung cấp dịch vụ môi
giới.
Hoạt động Ngân hàng đại lý: nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt
động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Các
Ngân hàng lớn thường cung cấp dịch vụ Ngân hàng đại lý cho các Ngân
hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi làm
Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
Ngân hàng thương mại ngày càng có vị trí như hệ thần kinh của cả
nền kinh tế. Nhiều nghiệp vụ mới đang ngày càng phát triển. Ngân hàng
thương mại từ chỗ chỉ cho vay ngắn hạn là chủ yếu đã mở rộng cho vay
trung và dài hạn, cho vay để đầu tư vào bất động sản. Nhiều Ngân hàng mở
rộng cho vay tiêu dùng, kinh doanh chứng khoán, cho thuê…Các hình thức
huy động cũng ngày càng phong phú. Các loại hình tiền gửi khác nhau
được đưa ra nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh các
hình thức huy động tiền gửi, các Ngân hàng đã mở rộng các hình thức vay
như vay Ngân hàng trung ương, vay các Ngân hàng khác. Công nghệ Ngân
hàng đang góp phần làm thay đổi các hoạt động cơ bản của Ngân hàng.
Thanh toán điện tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đẩy nhanh tốc
độ, tính thuận tiện, an toàn trong thanh toán. Các loại thẻ đang thay thế dần
tiền giấy và dịch vụ Ngân hàng 24 giờ, dịch vụ Ngân hàng tại nhà đang tạo
ra các tiện ích ngày càng lớn cho cả cộng đồng.
Lª ThÞ Dung 6 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.1.2. Hoạt động tín dụng
1.1.2.1. Vai trò của hoạt động tín dụng Ngân hàng
Nhu cầu tín dụng lúc nào cũng rất cần thiết với các tổ chức và cá
nhân trong nền kinh tế bất kể trong giai đoạn nào. Đặc biệt trong thời gian
tới khi nền kinh tế ngày càng phát triển, quá trình toàn cầu hoá, tự do hoá
diễn ra mạnh mẽ thì nhu cầu đó ngày càng trở nên cấp thiết để phát triển
sản xuất kinh doanh, để doanh nghiệp tồn tại, đứng vững và đi lên; để cá
nhân khẳng định chỗ đứng của mình trong xã hội. Hoạt động tín dụng là
hoạt động của tổ chức tín dụng sử dụng vốn huy động để cấp vốn cho các
cá nhân và tổ chức.
Cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của Ngân hàng. Đối với hầu
hết các Ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có
và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 1/3 tổng thu nhập của
Ngân hàng. Nhưng đi liền với điều đó là rủi ro trong kinh doanh Ngân hàng
cũng có xu hướng tập trung chủ yếu vào hoạt động này. Buông lỏng quản
lý,cung cấp các khoản tín dụng không minh bạch, chính sách tín dụng kém
hiệu quả hay do nền kinh tế đi xuống không lường trước được là những
nguyên nhân khiến khả năng không thu hồi được khoản vốn sẽ rất cao.
Hoạt động tín dụng có ý nghĩa không chỉ với Ngân hàng là đem lại
lợi nhuận- cơ sở cho sự tồn tại và phát triển mà đối với người đi vay và nền
kinh tế cũng có ý nghĩa rất quan trọng.
Đối với người đi vay, nguồn vốn vay từ ngân hàng là tương đối dễ
tiếp cận ở mọi lúc mọi nơi vì hiện nay mạng lưới Ngân hàng đã trải khắp
các địa bàn với phương thức cho vay, thanh toán hết sức đa dạng và phong
phú. Vốn vay từ ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có, rẻ và linh
hoạt hơn nữa vì phải hoàn trả nợ cả gốc và lãi cho Ngân hàng nên sẽ kích
thích khách hàng tìm phương án kinh doanh hiệu quả để hoạt động sản xuất
kinh doanh thu được lợi nhuận cao.
Đối với nền kinh tế, với chức năng huy động vốn để cho vay hoạt
động tín dụng đóng vai trò luân chuyển vốn trong nền kinh tế, chuyển vốn
từ nơi tạm thời nhàn rỗi sang nơi có nhu cầu sử dụng để phát triển kinh
doanh, phát triển kinh tế và nâng cao đời sống xã hội, Ngân hàng hoạt động
với mục tiêu lợi nhuận và an toàn nên Ngân hàng chỉ cho vay các dự án,
Lª ThÞ Dung 7 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng vốn vay có hiệu quả và khi các doanh
nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế sẽ phát triển vững chắc. Đồng
thời nhờ có khoản tín dụng Ngân hàng cấp các doanh nghiệp sẽ có đủ khả
năng tài chính để tiếp cận với công nghệ hiện đại, mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh từ đó thúc đẩy khoa học công nghệ và sản xuất hàng hoá phát
triển đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của dân cư, tạo thêm nhiều công ăn việc
làm cho người lao động.
1.1.2.2. Các loại tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các Ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của Ngân hàng. Tín dụng
được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau:
Theo thời hạn: tín dụng ngắn hạn (từ 12 tháng trở xuống) tài trợ cho
tài sản lưu động; tín dụng trung hạn (từ 1 năm đến 5 năm) tài trợ cho các tài
sản cố định; tín dụng dài hạn (trên 5 năm) tài trợ cho công trình xây dựng
như: nhà xưởng, máy móc, cầu đường…tỷ trọng tín dụng ngắn hạn thường
cao hơn tín dụng trung, dài hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý
nghĩa quan trọng với Ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết tới tính an
toàn và sinh lợi của tài sản. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như:
kỳ hạn, tính ổn định của nguồn, khả năng quản lý thanh khoản, khả năng
dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn.
Theo hình thức tài trợ gồm: cho vay, cho thuê, chiết khấu, bảo
lãnh…
- Cho vay là tài sản lớn nhất và quan trọng nhất trong khoản mục tín
dụng, là việc Ngân hàng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để
khách hàng sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận
với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Thông qua các bảng tổng kết tài
sản của các Ngân hàng thương mại chúng ta thấy rằng cho vay luôn là
khoản mục chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng tài sản của Ngân hàng và là
khoản mục đem lại thu nhập cao nhất cho Ngân hàng đồng thời rủi ro trong
hoạt động Ngân hàng có xu hướng tập trung cao nhất vào các khoản cho
vay.
Lª ThÞ Dung 8 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
- Chiết khấu thương phiếu: là việc Ngân hàng ứng trước cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi một phần thu nhập của
Ngân hàng để sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn (hoặc một giấy nợ)
- Cho thuê: là việc Ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thoả thuận nhất định. Sau một thời gian nhất định khách
hàng phải trả cả gốc và lãi cho Ngân hàng.
- Bảo lãnh: là việc Ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài
chính hộ khách hàng mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra song Ngân hàng
cho phép khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi. Bảo lãnh được ghi
vào tài sản ngoại bảng, đó là giá trị Ngân hàng cam kết trả cho khách hàng
của mình.
Theo đảm bảo gồm có: Tín dụng không có bảo đảm và có bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, cầm cố.
- Tín dụng không có tài sản bảo đảm thường được cấp cho khách
hàng có uy tín, làm ăn có lãi…
- Tín dụng dựa trên cam kết bảo đảm yêu cầu khách hàng và Ngân
hàng phải ký hợp đồng bảo đảm, Ngân hàng phải kiểm tra, đánh giá…trước
khi cho vay.
Theo rủi ro gồm: Các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình,
thấp. Cách phân loại này giúp Ngân hàng thường xuyên đánh giá lại khoản
mục tín dụng, dự trữ quỹ cho các khoản tín dụng rủi ro cao, đánh giá chất
lượng tín dụng.
Phân loại khác: Theo ngành kinh tế, theo đối tượng tín dụng, theo
mục đích. Cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá
trong cấp tín dụng của Ngân hàng. Với xu hướng đa dạng, các ngân hàng sẽ
mở rộng phạm vi tài trợ song vẫn duy trì những lĩnh vực mà Ngân hàng có
lợi thế.
1.1.2.3. Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng của tín dụng Ngân
hàng
Mỗi Ngân hàng có quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng khác nhau,
phụ thuộc chủ yếu vào:
Các đặc trưng thuộc lĩnh vực dịch vụ Ngân hàng cung cấp: Các
Ngân hàng cung cấp những khoản tín dụng cho khách hàng trong lĩnh vực
Lª ThÞ Dung 9 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Nếu như các Ngân hàng ở ngoại thành
thường có đội ngũ khách hàng phần lớn là các hộ gia đình, các cửa hàng
nhỏ, các hộ nông dân thì khách hàng của các Ngân hàng hoạt động ở thành
phố lại tập trung vào các doanh nghiệp, những siêu thị, trụ sở công ty,
những khu chung cư với những khoản tín dụng lớn.
Quy mô Ngân hàng: Theo quy định dư nợ tín dụng cho một khách
hàng phụ thuộc vào quy mô vốn tự có của Ngân hàng. Các Ngân hàng lớn
thường cung cấp các khoản tín dụng lớn cho các doanh nghiệp và công ty
trong khi các doanh nghiệp nhỏ lại chú ý vào các khoản tín dụng nhỏ cho
các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa hàng tư nhân. Như vậy, quy
mô Ngân hàng cũng là nhân tố xác định quy mô tín dụng và chủng loại tín
dụng của Ngân hàng.
Tỷ suất lợi nhuận dự tính: Nếu như các nhân tố khác không đổi,
Ngân hàng sẽ ưu tiên cấp những khoản tín dụng mang lại lợi nhuận ròng
lớn nhất sau khi đã trừ đi các chi phí và rủi ro tín dụng dự tính.Với tín
dụng thương mại và bất động sản, lợi thế lại thuộc về các Ngân hàng nhỏ;
các Ngân hàng lớn có ưu thế trong việc cấp thẻ tín dụng cho các cá nhân và
hộ gia đình. Cũng giống như quy mô tín dụng, quy mô khách hàng cũng có
ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng. Ngân hàng lớn khi cấp
tín dụng cho các khách hàng lớn thường áp dụng mức lãi suất thấp hơn bởi
vì mức rủi ro tín dụng thấp và áp lực cạnh tranh cao hơn.
1.1.2.4. Chính sách tín dụng Ngân hàng
“ Chính sách tín dụng an toàn và hiệu quả” là một trong những biện
pháp quan trọng để các khoản tín dụng Ngân hàng đáp ứng được các tiêu
chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn. Chính sách tín dụng cung cấp cho cán
bộ tín dụng và nhà quản lý một khung chỉ dẫn hữu hiệu để ra các quyết
định tín dụng và định hướng cho danh mục đầu tư tín dụng của Ngân hàng.
Nếu một chính sách tín dụng không hiệu quả nguy cơ dẫn đến rủi ro cho
hoạt động của Ngân hàng là rất cao.
Nội dung căn bản của một chính sách tín dụng bao gồm:
- Chính sách khách hàng: Khách hàng nhận tín dụng của Ngân hàng
rất đa dạng từ các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, các cơ quan nhà nước,
cá nhân người tiêu dùng, các Ngân hàng, các công ty tài chính… tuy nhiên
Lª ThÞ Dung 10 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
cũng có một số đối tượng nhất định bị pháp luật cấm Ngân hàng cấp tín
dụng. Ngân hàng thường xuyên tiến hành phân loại khách hàng để có chính
sách tín dụng hợp lý bao gồm khách hàng truyền thống, khách hàng quan
trọng và khách hàng khác. Loại khách hàng truyền thống và quan trọng
thường được hưởng chính sách ưu đãi của Ngân hàng thương mại. Đây là
nội dung có liên quan đến chính sách Marketing nên được các Ngân hàng
hết sức quan tâm chú ý.
- Chính sách quy mô và giới hạn tín dụng: Giới hạn tín dụng là
khoản tín dụng tối đa mà khách hàng có thể được nhận từ Ngân hàng. Ngân
hàng chỉ cam kết tài trợ cho khách hàng với món tiền hoặc hạn mức nhất
định. Ngân hàng có thể chia nhỏ các khoản vốn cấp nhiều lần cho khách
hàng và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau. Mức lớn nhất Ngân hàng có
thể cho vay bằng nhu cầu của khách hàng và phù hợp với các điều luật quy
định dựa trên tính toán của Ngân hàng, rủi ro và sinh lời. Bên cạnh các giới
hạn được quy định trong luật các tổ chức tín dụng, mỗi Ngân hàng cũng có
những quy định riêng về quy mô và giới hạn tín dụng. Chính sách này được
quy định cho từng thời kỳ trong năm căn cứ vào quy mô và tính chất của
nguồn vốn mỗi Ngân hàng cụ thể. Mức tối đa không vượt quá giá trị tài sản
thế chấp, cầm cố, bảo lãnh do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận định
giá.
- Lãi suất và phí suất tín dụng: Lãi suất rất linh hoạt, có rất nhiều
mức phù hợp với từng thời kỳ, từng phương thức và loại cho vay mà Ngân
hàng áp dụng đối với khách hàng. Hiện nay lãi suất cho vay là lãi suất thoả
thuận giữa Ngân hàng và khách hàng phù hợp với quy định chung của
Ngân hàng Nhà Nước. Các Ngân hàng đều có chính sách lãi suất và điều
kiện cho vay ưu đãi đối với các khách hàng có uy tín tốt trong lịch sử quan
hệ tín dụng với Ngân hàng.
Để có được các cam kết tín dụng có thể khách hàng phải trả cho
Ngân hàng một khoản phí tín dụng được tính bằng tỷ lệ % trên hạn mức
cam kết (gọi là phí suất tín dụng). Phí tín dụng có thể là phí bảo lãnh, phí
cam kết, phí quản lý. Phí suất được xác định chủ yếu dựa trên rủi ro (trong
bảo lãnh), trên chi phí huy động vốn (phí cam kết tài trợ) hoặc các chi phí
khác.
Lª ThÞ Dung 11 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
- Thời hạn tín dụng và kỳ hạn nợ:
Các giới hạn về thời hạn luôn được các nhà quản lý Ngân hàng chú ý
bởi vì kỳ hạn liên quan tới thanh khoản và rủi ro Ngân hàng cũng như chu
kỳ kinh doanh. Chính sách tín dụng quy định rõ các Ngân hàng cung ứng
tín dụng cho khách hàng với thời hạn như thế nào. Chính sách thời hạn phải
giải quyết mối quan hệ thời hạn của nguồn và thời hạn tài trợ từ đó Ngân
hàng xác định kỳ hạn nợ cụ thể để đảm bảo cân bằng kỳ hạn trung bình.
Ngân hàng thường dựa trên kỳ hạn của nguồn để quyết định chính sách kỳ
hạn cho vay.
Kỳ hạn nợ liên quan đến tính toán các nguồn thu của khách hàng có
thể dùng để trả nợ. Chính sách xác định cụ thể kỳ hạn nợ và tăng số lần trả
nợ trong kỳ sẽ tăng mật độ luồng tiền vào, giảm kỳ hạn tín dụng trung bình,
song sẽ tăng chi phí thu nợ của Ngân hàng (nếu khách hàng không có tài
khoản tại Ngân hàng).
- Các khoản đảm bảo: Chính sách đảm bảo gồm các quy định về các
trường hợp tài trợ cần đảm bảo bằng tài sản, các loại đảm bảo cho mỗi loại
hình tín dụng, danh mục các đảm bảo được Ngân hàng chấp nhận, tỷ lệ %
cho vay trên đảm bảo, đánh giá và quản lý đảm bảo. Ngân hàng cấp tín
dụng dựa trên uy tín của khách hàng. Trong trường hợp khách hàng truyền
thống có quan hệ lâu bền, có uy tín, Ngân hàng cho vay không cần ký hợp
đồng đảm bảo. Ngân hàng sẽ đòi hợp đồng tài sản đảm bảo trong những
trường hợp độ an toàn của người vay không chắc chắn. Đảm bảo có thể
bằng phương pháp cầm cố hoặc thế chấp. Các đảm bảo thường là giấy tờ có
giá, hàng hóa trong kho nhà cửa thiết bị hoặc bảo lãnh của người thứ 3.
- Chính sách đối với các tài sản có vấn đề: Các tài sản có vấn đề bao
gồm các khoản nợ xấu (đã quá hạn, khó đòi hoặc không đòi được) và các
tài sản có biểu hiện đáng ngờ (chiết khấu giảm giá, các khoản bảo lãnh có
nguy cơ phải thực hiện nghĩa vụ).
Chính sách tín dụng áp dụng với các tài sản có vấn đề gồm quy định
về cách thức xác định nợ xấu (đó là các yếu tố cấu thành khoản nợ xấu) và
các tài sản đáng ngờ khác, tỷ lệ nợ xấu có thể chấp nhận và mức độ xấu của
khoản nợ, trách nhiệm giải quyết, phạm vi thanh lý và khai thác.
Lª ThÞ Dung 12 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.2. AN NINH TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.2.1. Bản chất của an ninh tín dụng
Mục tiêu lớn nhất của Ngân hàng thương mại là lợi nhuận, làm sao
để hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đem lại lợi nhuận lớn nhất cho
Ngân hàng là mục tiêu mà tất cả các Ngân hàng đều hướng tới tuy nhiên
khi lợi nhuận thu được càng lớn thì nguy cơ đối mặt với rủi ro càng cao
hơn nữa rủi ro trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có phản ứng dây
chuyền, lây lan nhanh với những diễn biến hết sức phức tạp. Ngân hàng là
một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành
đầu tư – là đầu mối kết nối giữa các chủ thể của nền kinh tế giữa một bên là
các chủ thể có tiền và một bên là các chủ thể cần tiền vì vậy rủi ro đến với
Ngân hàng từ nhiều phía. Có những rủi ro từ bên ngoài đưa lại nhưng cũng
có những rủi ro do chủ quan của các nhà quản trị Ngân hàng gây ra.
Vì vậy song song với mục tiêu lợi nhuận, mục tiêu đảm bảo an toàn
trong kinh doanh của Ngân hàng cũng được đặt lên hàng đầu đặc biệt là
trong hoạt động tín dụng, rủi ro đến từ hoạt động này gây ảnh hưởng tới
Ngân hàng nặng nề nhất và thường xuyên nhất. Rủi ro tín dụng là khả năng
xảy ra những tổn thất mà Ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng vay
không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đầy đủ gốc và lãi cho Ngân
hàng. Những năm gần đây công tác đảm bảo an ninh tín dụng ngày càng
được các Ngân hàng quan tâm chú ý để làm sao loại trừ bớt những ảnh
hưởng xấu do rủi ro tín dụng gây ra. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ
thể, Ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố người vay sao cho độ an toàn
là cao nhất ít có khả năng xảy ra rủi ro nhất. Tuy nhiên không một nhà kinh
doanh Ngân hàng tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra.
Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều
nguyên nhân, hơn nữa nhiều cán bộ Ngân hàng chưa có khả năng phân tích
tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín dụng là không thể loại trừ, vấn đề là
làm sao để mức rủi ro đó xảy ra là thấp nhất chính là mục tiêu của công tác
đảm bảo an ninh tín dụng. Suy cho cùng bản chất của đảm bảo an ninh tín
dụng là giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng sinh lời cho Ngân hàng. Nghiên
cứu và tìm các giải pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp
Lª ThÞ Dung 13 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
tổn thất đã xảy ra là những nội dung chủ yếu của chính sách an ninh tín
dụng.
1.2.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ đảm bảo an ninh tín dụng
Để xác định chính xác mức độ rủi ro của các khoản vay từ đó đưa ra
các giới hạn đảm bảo an ninh tín dụng, Ngân hàng phải căn cứ vào các chỉ
tiêu định tính và các chỉ tiêu định lượng.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu định tính
Đối với mỗi đơn xin vay cán bộ tín dụng phải trả lời được các câu
hỏi cơ bản sau:
a. Người xin vay có thể tín nhiệm ?
Mức độ đảm bảo an ninh tín dụng phụ thuộc trước hết vào người
vay, người xin vay có thể tín nhiệm được hay không sẽ có ảnh hưởng quan
trọng đến quyết định cho vay của Ngân hàng. Để đánh giá được độ tín
nhiệm của của khách hàng, Ngân hàng thường căn cứ vào chỉ tiêu định tính
gọi là tiêu chuẩn 6C
- Character: Tư cách của người vay
Tiêu chuẩn này Ngân hàng căn cứ vào tinh thần trách nhiệm, tính
trung thực, mục đích vay rõ ràng và thiện chí trả nợ của người vay để đánh
giá. Khi cân nhắc cho vay, cán bộ tín dụng phải xem người xin vay có mục
đích tín dụng rõ ràng và thiện chí trả nợ đúng hạn đến đâu, đồng thời phải
làm rõ mục đích xin vay của khách hàng là gì. Khi mục đích xin vay đã
được xác định rõ ràng, cán bộ tín dụng còn phải xác định xem có phù hợp
với chính sách tín dụng hiện hành của Ngân hàng hay không? Thậm chí,
ngay cả khi mục đích xin vay là tốt, nếu thái độ trách nhiệm của người xin
vay trong việc sử dụng vốn không có, trả lời các câu hỏi không trung thực,
thiện chí và lỗ lực để hoàn trả nợ vay khi đến hạn không cao thì cũng
không xem xét cho vay. Nếu phát hiện thấy có dấu hiệu giả dối trong kế
hoạch sử dụng và trả nợ thì cán bộ tín dụng phải từ chối cho vay ngay để
đảm bảo an toàn tín dụng cho Ngân hàng.
- Capacity: Năng lực của người vay
Năng lực hành vi và năng lực pháp lý là điều kiện cần để kí kết hợp
đồng tín dụng. Cán bộ tín dụng phải đảm bảo rằng người xin vay có đủ
Lª ThÞ Dung 14 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
điều kiện do pháp luật quy định về tuổi tác và tư cách pháp lý thì mới được
kí hợp đồng. Người đại diện cho công ty kí kết hợp đồng cũng phải là
người được uỷ quyền hợp pháp của công ty. Vì nếu như hợp đồng tín dụng
được kí bởi người uỷ quyền không hợp pháp các khoản nợ sẽ không thu hồi
được, tiềm ẩn rủi ro với các khoản cho vay là lớn.
- Cash: Thu nhập của người vay
Thu nhập của người vay là điều kiện cơ bản tạo ra nguồn trả nợ cho
Ngân hàng vì vậy cán bộ tín dụng phải căn cứ phương án sản xuất kinh
doanh của người vay để xác định khả năng thu nhập, khả năng trả nợ của
người vay cho Ngân hàng. Khả năng tạo ra tiền của khách hàng đến từ các
nguồn: Luồng tiền từ doanh thu bán hàng hay thu nhập, bán thanh lý tài
sản, tiền từ phát hành chứng khoán. Bất cứ nguồn nào từ ba khả năng này
đều có thể trả nợ vay cho Ngân hàng. Cán bộ tín dụng đánh giá thêm về thu
nhập của khách hàng thông qua việc hỏi và trả lời các câu hỏi sau: (i) Thu
nhập hay doanh thu có mức tăng trưởng cao trong quá khứ là rõ ràng và
chắc chắn? (ii) Liệu mức tăng trưởng cao này có được duy trì để hỗ trợ cho
việc trả nợ vay Ngân hàng ? (iii) Thu nhập hiện hành và trong quá khứ của
người vay là bằng chứng quan trọng để cán bộ tín dụng có thêm căn cứ
đánh giá chính xác.
- Collateral: Bảo đảm tiền vay
Ngân hàng quy định khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín
dụng đối với các khoản cho vay nhất định. Bởi vì khách hàng cũng luôn
gặp rủi ro trong kinh doanh, khả năng mất trả nợ cho ngân hàng là điều khó
có thể tránh khỏi. Vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, Ngân hàng
yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng để tăng thu
nhập và nghĩa vụ trả nợ của người đi vay. Nếu rủi ro xảy ra, tài sản đảm
bảo sẽ trở thành nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập
từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Như thế khoản vay vẫn
được đảm bảo an toàn ngay cả khi hoạt động kinh doanh của khách hàng có
vấn đề.
Khi đánh giá các tài sản được đưa ra làm tài sản đảm bảo, cán bộ tín
dụng phải căn cứ các yếu tố: tuổi thọ, điều kiện và mức độ chuyên dụng
Lª ThÞ Dung 15 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
của tài sản. Khía cạnh công nghệ cũng phải đặc biệt chú ý, vì nếu tài sản có
công nghệ lạc hậu sẽ rất khó tìm được người mua khi cần phát mại tài sản.
- Conditions: Các điều kiện
Xu hướng hiện hành về công việc, ngành nghề kinh doanh khác và
điều kiện kinh tế có ảnh hưởng đến cho vay kinh doanh của khách hàng;
cán bộ tín dụng cần phải đánh giá được những ảnh hưởng đó để có thể tư
vấn kinh doanh cho khách hàng. Đánh giá được các điều kiện này Ngân
hàng căn cứ vào các file dữ liệu thông tin được Ngân hàng lưu trữ, các tạp
chí, báo cáo nghiên cứu…
- Control: Kiểm soát
Tập trung vào các vấn đề: các thay đổi trong luật pháp và quy chế có
ảnh hưởng xấu đến người vay? Yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng
được điều kiện của Ngân hàng và của nhà quản lý về chất lượng tín dụng.
b. Hợp đồng tín dụng được ký kết đúng đắn và hợp lệ?
Hợp đồng tín dụng phải rõ ràng, phải đầy đủ các điều khoản tín dụng
cần thiết. Trước hết nội dung hợp đồng tín dụng phải đáp ứng được nhu cầu
vốn của người vay và kế hoạch trả nợ phải thuận lợi, phù hợp với chu kỳ
kinh doanh của khách hàng. Hợp đồng tín dụng phải trên cơ sở tạo điều
kiện thuận lợi nhất để người vay có khả năng thực hiện kế hoạch trả nợ, bởi
vì sự thành đạt của Ngân hàng phụ thuộc cơ bản vào sự thành công của
khách hàng. Cán bộ tín dụng phải hướng dẫn khách hàng làm đơn xin vay
hợp lệ, phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng. Đồng thời một
hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của Ngân hàng bằng
cách quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay nếu các
hoạt động này đe doạ khả năng thu hồi vốn vay của Ngân hàng. Những quy
định về cưỡng chế thu hồi nợ vay cũng phải được quy định cụ thể trong
hợp đồng tín dụng.
1.2.2.2. Các chỉ tiêu định lượng
a. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến
hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng.
Nợ quá hạn
Lª ThÞ Dung 16 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Tổng dư nợ
b. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ
Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ
Nợ khó đòi
Tỷ lệ nợ khó đòi =
Nợ quá hạn
Các chỉ tiêu này đều có thể dễ dàng đo lường được. Các khoản nợ
quá hạn và nợ khó đòi là các khoản nợ xấu mà không một Ngân hàng nào
muốn có cả. Tuy nhiên đó là một thực tế mà buộc tất cả các Ngân hàng đều
phải chấp nhận, các Ngân hàng vẫn phải chấp nhận các khoản nợ xấu là
bạn đường trong kinh doanh của Ngân hàng. Nếu như các chỉ tiêu định tính
căn cứ chủ yếu vào chủ quan của cán bộ tín dụng để đánh giá an ninh tín
dụng thì các chỉ tiêu định lượng này đo lường một cách cụ thể về mức độ
an toàn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng dựa trên các con số thống
kê thực tế mà Ngân hàng lưu giữ. Việc xác định tỷ lệ nợ quá hạn và nợ khó
đòi ở mức như thế nào thì đảm bảo an ninh tín dụng là tuỳ thuộc vào từng
Ngân hàng, tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động, tuỳ mục tiêu chiến lược của
mỗi Ngân hàng trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cụ thể.
Có nhiều quan điểm khác nhau, cách tính toán khác nhau về kỳ hạn
nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng gây khó khăn cho
Ngân hàng trong việc đo lường an ninh tín dụng.
- Thứ nhất: do định kỳ hạn nợ không đúng
Nhiều cán bộ tín dụng đã không thực sự chú ý đến chu kỳ kinh
doanh của khách hàng khi cho vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ
đặt kỳ hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro, khi kỳ hạn nợ không phù hợp với chu
kỳ thu nhập của người vay dĩ nhiên khi đến hạn người vay sẽ không trả
được nợ gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe doạ tài chính với
người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “phụ phí” để được gia hạn nợ hoặc
phải chịu lãi suất phạt.
- Thứ hai: do đảo nợ hoặc giãn nợ
Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể được
đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với Ngân hàng
Lª ThÞ Dung 17 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
cấp trên hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên Ngân
hàng thoả thuận vay khoản mới để trả nợ cũ. Nhân viên tín dụng còn có thể
thực hiện giãn nợ đối với khoản nợ mà người vay chắc chắn không thể trả
được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không
phản ánh chính xác mục đích đảm bảo an ninh tín dụng.
- Thứ ba: do chính sách cho vay
Đối với các khoản cho vay theo chỉ định của Chính phủ: cho vay
doanh nghiệp nhà nước, người nghèo,…không thể thu hồi bằng phát mại tài
sản. Khi có rủi ro xảy ra nếu như Chính phủ chưa có biện pháp giải quyết,
chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của Ngân hàng trở thành tài sản “ảo”.
Những khoản nợ này xử lý rất phức tạp. Nhiều Ngân hàng loại chúng ra
khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính
phủ đồng ý). Tuy nhiên, nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp
ngay, chúng thực sự đe doạ thu nhập của các Ngân hàng.
c. Các chỉ tiêu khác
Bên cạnh nợ quá hạn, nợ khó đòi, nhà quản lý Ngân hàng còn sử
dụng các chỉ tiêu đo lường an ninh tín dụng khác: đo lường các khoản cho
vay có vấn đề, điểm của khách hàng…
- Các khoản cho vay có vấn đề: Mặc dù chưa đến hạn và cũng chưa
được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên Ngân hàng
nhận thấy nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ
trở thành nợ quá hạn. Mỗi Ngân hàng quy định các khoản cho vay có vấn
đề theo tiêu chuẩn khác nhau. Một Ngân hàng có nhiều khoản vay có vấn
đề sẽ là dấu hiệu cho thấy an ninh tín dụng bị đe doạ.
- Điểm của khách hàng: Các Ngân hàng thường tiến hành phân tích
tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng, hiệu quả
dự án…từ đó lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng
loại A hoặc điểm cao, rủi ro tín dụng thấp; khách hàng loại C hoặc điểm
thấp, rủi ro tín dụng cao. Rủi ro tiềm ẩn phát hiện từ việc chấm điểm khách
hàng sẽ gợi ý cho Ngân hàng những biện pháp đảm bảo an ninh tín dụng
hiệu quả hơn.
Lª ThÞ Dung 18 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
1.2.3.Các phương pháp đo lường an ninh tín dụng
Bản chất của an ninh tín dụng chính là nhằm hạn chế rủi ro và tăng
lợi nhuận cho Ngân hàng. Quản lý rủi ro chính là nhằm đảm bảo cho hoạt
động tín dụng được lành mạnh, an toàn hơn. Vì vậy các phương pháp đo
lường rủi ro tín dụng cũng chính là căn cứ để đo lường an ninh tín dụng
Ngân hàng.
Tháng 6/2004, uỷ ban Basel đã chính thức công bố hiệp ước Basel I
sửa đổi, được gọi là hiệp ước Basel II. Hiệp ước Basel II quy định hoàn
toàn về rủi ro, vốn và quản lý rủi ro. Cơ chế căn bản của việc duy trì một hệ
thống Ngân hàng an toàn nói chung và an ninh tín dụng nói riêng là hệ
thống tính toán vốn dự phòng bắt buộc nhạy cảm với rủi ro, có thể giúp các
Ngân hàng có hệ thống quản lý rủi ro tốt hơn, giảm được mức vốn dự
phòng bắt buộc và do đó tạo ra động lực cho các Ngân hàng nâng cao khả
năng bảo đảm an ninh tín dụng.
Sơ đồ tóm tắt các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng theo Basel II
Các phương pháp
PD: Xác suất vỡ nợ
LGD: hoá thất
ChuẩnTổn vỡ nợhoá
giảnnếu xảy raChuẩn IRR căn IRR cao
đơn ( SSA ) ( SA ) bản cấp
M: Kỳ hạn nợ
EAD: Tài sản có rủi ro tại thời điểm vỡ nợ
RRTD:
KhôngRủi ro tín dụng
có sự Hệ số rủi ro Các Dựa vào PD, LGD,
đánh giá
1.2.3.1. của pháp
Phương vào hoá giản
dựa chuẩn phương sự đánh
đơn ( SSA ) EAD, M
bên ngoài đánh giá pháp giá của dựa vào
Đây là phương bênpháp
ngoàigiống Basel
giảm I nhất về thước đo rủi
chính sựrotựtín dụng
căn bản, trong đó vốn dự phòng tốiRRTD
thiểu đối vớicác
các khoản tínđánh
NH dụnggiádoanh
nghiệp vẫn ở mức 8% là mức an ninh tín dụng được bảo đảm. Tuy nhiên nó
khác Basel I ở một số điểm:
Đối xử ưu tiên Phương Phương
- Thứ nhất, vốn dự phòng đối với các khoản tín dụng cấp cho các
với các doanh pháp giản pháp toàn
nghiệp
Chính trong
phủ sẽ hơn rủi ro tín dụngdiện
phản ánh đúng đơn thông qua việc sử dụng các
nước
Lª ThÞ Dung 19 Ng©n hµng 44A
Luận văn tốt nghiệp
kết quả xếp hạng bình quân của các cơ quan tín dụng xuất khẩu (EAC)
được công bố trên trang Web của OECD.
- Thứ hai, có một sự khác biệt trong việc cho vay của một Ngân hàng
đối với Chính phủ của mình (hoặc nắm giữ trái phiếu Chính phủ đó trong
tài khoản đầu tư). Mức vốn dự phòng tối thiểu là 0% nếu nếu khoản tín
dụng này sử dụng đồng nội tệ của Chính phủ đó, còn mức vốn dự phòng sẽ
phụ thuộc vào mức xếp hạng của EAC nếu không phải là đồng nội tệ.
- Thứ ba, phương pháp này sẽ áp dụng hệ số rủi ro tối thiểu là 35%
đối với các khoản tín dụng được bảo đảm hoàn toàn bởi nhà ở của người
vay (trong Basel I tỷ lệ này là 50%), 75% đối với các khoản vay cá nhân và
150% đối với các khoản nợ quá hạn nếu các khoản dự phòng rủi ro tín
dụng < 20%.
1.2.3.2. Phương pháp chuẩn hoá ( SA )
Phương pháp này cho phép Ngân hàng sử dụng các kết quả xếp hạng
tín nhiệm của các cơ quan xếp hạng tín dụng tư nhân cũng như các cơ quan
tín dụng xuất khẩu để đưa ra các đánh giá về rủi ro tín dụng từ đó tính toán
mức vốn dự phòng tối thiểu - mức tối thiểu để an ninh tín dụng được bảo đảm.
Basel cho phép áp dụng 4 hình thức hạn chế rủi ro, bảo đảm an ninh
tín dụng: Thế chấp, bù trừ tài sản nội bảng (bù trừ giữa các tài sản có (các
khoản tín dụng) và các tài sản nợ (các khoản tiền gửi) mà được coi là tài
sản đảm bảo), bảo lãnh của bên thứ ba và chứng khoán hoá. Riêng đối với
phương pháp chuẩn hoá (SA), Basel II còn đưa ra 2 phương pháp quản lý
tài sản thế chấp: Phương pháp giản đơn và phương pháp toàn diện.
Phương pháp giản đơn
Theo phương pháp này hệ số rủi ro của phần tín dụng được đảm bảo
bằng tài sản thế chấp sẽ có giới hạn sàn là 20%, phần còn lại của khoản tín
dụng này có hệ số rủi ro phù hợp với người vay. Tài sản thế chấp phải được
thế chấp ít nhất là trong cả kỳ hạn của khoản tín dụng và phải được đánh
giá theo giá thị trường, phải được định giá lại tối thiểu là 6 tháng/ lần thì tài
Lª ThÞ Dung 20 Ng©n hµng 44A