Biện chứng giữa vấn đề dân tộc và giai cấp trong tư tưởng hồ chí minh
- 10 trang
- file .doc
BIỆN CHỨNG GIỮA VẤN ĐỀ
DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
A. Mở đầu:
Mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một trong những đóng góp xuất sắc
của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mac- Lênin. Người đã
kế thừa những luận điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, từ đó đưa ra quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa chúng và vận
dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.Có
thể khẳng định rằng, giá trị thời đại của tư tưởng ấy vẫn luôn sáng ngời và có tầm
chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam.
B. Nội dung:
I. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mac- Lênin:
Trong lịch sử, vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo
lập trường của một giai cấp nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, chỉ trên lập trường của giai cấp
vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản, Mac- Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp: “ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc”. Mac kêu gọi: “giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,… không phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mac- Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản
1
mới thống nhất được lợi ích dân tộc, lợi ích của mình với các lợi ích của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới
xóa bỏ áp bức dân tộc, đem lại đọc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc
khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. Đối với Mac,
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi Chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, CM giải
phóng dân tộc trở thành một bộ phận của CM vô sản, Lênin mới phát triên vấn đề
dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, CM vô sản ở
chíng quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Với khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”, Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại
mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.”
Mặc dù vậy, học thuyết Mac- Lênin vẫn tập trung vào vấn đề giai cấp, vẫn:
“đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào vấn đề dân tộc và
chung cho toàn thể giai cấp vô sản”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp:
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mac- Lênin về mối quan
hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm
mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mac-
Lênin.
Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hâụ, chưa phát triển nên sự phân
hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn
chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu
2
thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này
không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các
nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng
được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải được đặt lên trên quyền lợi giai
cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành
động của Quốc tế cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế. Người đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực
lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân
tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp được thể hiện trong các luận điểm:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Đây thực chất là sự gắn bó thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp; là cả một quá trình phát triển trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bài “Cuộc kháng chiến” viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã sớm thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với
sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
3
giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, trong “Chánh cương, Sách lược vắn tắt” được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định con đường của
cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ) để đi tới xã hội cộng
sản (CM XHCN).”
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột
và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Do đó “giành
được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân
giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do.” Hồ
Chí Minh nói: “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu CNXH, vì có tiến lên
CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu
mạnh thêm”. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Mối quan hệ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không phải chỉ được
vận dụng để hoạch định con đường cách mạng mà còn được vận dụng cả trong
chiến lươc cách mạng, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ cũng như ở giai
đoạn cách mạng XHCN. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ: Độc lập dân
tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng, CNXH là xu hướng phát triển tất yếu của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong giai đoạn
4
CM XHCN: Độc lập dân tộc là tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn CNXH
là con đường bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
2. Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải
phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX chứng tỏ cách mạng chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
Hồ Chí Minh vượt lên trên những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước,
đến với học thuyết cách mạng vô sản. “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải theo đường lối
Mác-Lênin”. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao
hàm nội dung sau:
- Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần dần làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng
Cộng sản.
- Lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công – nông – trí.
- Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. “Ai làm cách
mạng trong thế giới cũng là đồng chí của người An nam ta cả”. Cách mạng thuộc
địa phải gắn chặt với cách mạng vô sản chính quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình
đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng
5
tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng
nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân,
nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công
nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ
có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô
địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm
lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên
trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''.
''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng
dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được
giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho
cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc
như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở
chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng
lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một
6
chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên
giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ
trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo
và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí
Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản
cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá
độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình
và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, rập khuôn những hình thức, bước đi, biện
pháp của nước khác.
3. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính
dân tộc của nhà nước ta:
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn
đề giai cấp- dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Người đã giải
quyết hài hoà, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc
và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
Thứ nhất: Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ
của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc ta rơi vào khủng
hoảng đường lối cách mạng. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu yêu nước song đều không giành được độc lập cho dân tộc. Từ ngày
3/2/1930 khi Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên
phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và
đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính
quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đấu tiên ở Đông Nam châu Á.
7
Thứ hai: Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi
ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở
chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc.
Thứ ba: Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc
giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc
lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế
giới.
Như vậy, cơ sở của Nhà nước ta là khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn
kết toàn dan. Sự thống nhất dân tộc là yếu tố bảo đảm tính bền vững, không chia
cắt và sức mạnh của nhà nước. Sự thống nhất lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, các dân tộc đã tại cơ sở khách quan quyết định sự
thống nhất bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc. Nhà
nước dân chủ nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân trở thành Nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
III. Vận dụng vào thực tế công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN:
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai
các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến
lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức
8
DÂN TỘC VÀ GIAI CẤP
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
A. Mở đầu:
Mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một nét
đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là một trong những đóng góp xuất sắc
của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mac- Lênin. Người đã
kế thừa những luận điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin về vấn đề dân tộc và vấn đề
giai cấp, từ đó đưa ra quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa chúng và vận
dụng một cách sáng tạo vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam.Có
thể khẳng định rằng, giá trị thời đại của tư tưởng ấy vẫn luôn sáng ngời và có tầm
chỉ đạo chiến lược sống còn đối với tiến trình hiện tại của cách mạng Việt Nam.
B. Nội dung:
I. Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong chủ nghĩa Mac- Lênin:
Trong lịch sử, vấn đề dân tộc bao giờ cũng được nhận thức và giải quyết theo
lập trường của một giai cấp nhất định.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac- Lênin, chỉ trên lập trường của giai cấp
vô sản, cách mạng vô sản mới giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản, Mac- Ăngghen đã đề cập đến mối quan hệ giữa dân tộc với
giai cấp: “ cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai
cấp tư sản, ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc”. Mac kêu gọi: “giai
cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành
giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành giai cấp dân tộc,… không phải theo cái
nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”. Cũng theo Mac- Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản
1
mới thống nhất được lợi ích dân tộc, lợi ích của mình với các lợi ích của nhân
dân lao động và của cả dân tộc. Chỉ có xoá bỏ áp bức, bóc lột giai cấp thì mới
xóa bỏ áp bức dân tộc, đem lại đọc lập thật sự cho dân tộc mình và cho dân tộc
khác. Tuy nhiên, Mác và Ăngghen không đi sâu nghiên cứu vấn đề dân tộc vì ở
Tây Âu vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong cách mạng tư sản. Đối với Mac,
vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu so với vấn đề giai cấp.
Thời đại Lênin, khi Chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới, CM giải
phóng dân tộc trở thành một bộ phận của CM vô sản, Lênin mới phát triên vấn đề
dân tộc thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo Lênin, CM vô sản ở
chíng quốc không thể giành thắng lợi nếu không liên minh với cuộc đấu tranh của
các dân tộc bị áp bức ở thuộc địa. Với khẩu hiệu: “Vô sản toàn thế giới và các
dân tộc bị áp bức, đoàn kết lại!”, Lênin đã thực sự “đặt tiền đề cho một thời đại
mới, thật sự cách mạng trong các nước thuộc địa.”
Mặc dù vậy, học thuyết Mac- Lênin vẫn tập trung vào vấn đề giai cấp, vẫn:
“đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào vấn đề dân tộc và
chung cho toàn thể giai cấp vô sản”.
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp:
Trên cơ sở những quan điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mac- Lênin về mối quan
hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm
mới và sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mac-
Lênin.
Theo Người, ở các nước thuộc địa “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của
đất nước”. Người phân tích, do kinh tế còn lạc hâụ, chưa phát triển nên sự phân
hoá giai cấp ở nước ta và nhiều nước thuộc địa khác chưa triệt để, mâu thuẫn
chưa đến mức đối kháng quyết liệt. Ở những nước thuộc địa như nước ta, mâu
2
thuẫn giữa dân tộc với chủ nghĩa đế quốc quyết liệt hơn mâu thuẫn giữa giai cấp
nông dân với địa chủ, giữa công nhân với tư sản. Do đó, trong bối cảnh này
không thể giải quyết vấn đề giai cấp rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc như ở các
nước tư bản phương Tây được, mà chỉ có thể giải phóng dân tộc mới giải phóng
được giai cấp, quyền lợi dân tộc, đất nước phải được đặt lên trên quyền lợi giai
cấp. Xuất phát từ luận điểm trên, Hồ Chí Minh từng kiến nghị Cương lĩnh hành
động của Quốc tế cộng sản theo hướng phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân
danh Quốc tế Cộng sản, khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng, nhất định nó sẽ biến
thành chủ nghĩa quốc tế. Người đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc
với chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính, coi đó là một động lực
lớn mà những người cộng sản phải nắm lấy và phát huy, không để ngọn cờ dân
tộc rơi vào tay giai cấp nào khác, phải nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên
lập trường của giai cấp vô sản, kết hợp chủ nghĩa dân tộc với chủ nghĩa quốc tế.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp được thể hiện trong các luận điểm:
1. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
Đây thực chất là sự gắn bó thống nhất giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp; là cả một quá trình phát triển trong tư duy lý luận của Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc, theo Hồ Chí Minh, là phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Ngay từ khi tiếp cận Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ
Chí Minh đã hình thành đường lối cứu nước: giải phóng dân tộc theo con đường
cách mạng vô sản, gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế,
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong bài “Cuộc kháng chiến” viết đầu những năm 20 của thế kỷ XX, Hồ Chí
Minh đã sớm thấy rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc với
sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới
3
giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”.
Năm 1930, trong “Chánh cương, Sách lược vắn tắt” được thông qua tại Hội
nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định con đường của
cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: làm “tư sản dân quyền cách
mạng và thổ địa cách mạng (cách mạng dân tộc dân chủ) để đi tới xã hội cộng
sản (CM XHCN).”
Năm 1960, Hồ Chí Minh xác định “chỉ có CNXH, CNCS mới giải phóng được
các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự gắn bó giữa độc lập dân tộc và CNXH vừa
phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại
cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải
phóng dân tộc với các mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người. Xoá bỏ ách áp bức dân tộc mà không xoá bỏ tình trạng bóc lột
và áp bức giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Do đó “giành
được độc lập rồi phải tiến lên CNXH, vì mục tiêu của CNXH là “làm sao cho dân
giàu, nước mạnh”, “là mọi người được ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do.” Hồ
Chí Minh nói: “yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn với yêu CNXH, vì có tiến lên
CNXH thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu
mạnh thêm”. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã phát triển thành chủ nghĩa yêu
nước hiện đại, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH.
Mối quan hệ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không phải chỉ được
vận dụng để hoạch định con đường cách mạng mà còn được vận dụng cả trong
chiến lươc cách mạng, ở giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ cũng như ở giai
đoạn cách mạng XHCN. Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ: Độc lập dân
tộc là mục tiêu trực tiếp của cách mạng, CNXH là xu hướng phát triển tất yếu của
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo. Trong giai đoạn
4
CM XHCN: Độc lập dân tộc là tiền đề để xây dựng chủ nghĩa xã hội, còn CNXH
là con đường bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc.
2. Sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải
phóng dân tộc và cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX chứng tỏ cách mạng chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
Hồ Chí Minh vượt lên trên những hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu yêu nước,
đến với học thuyết cách mạng vô sản. “Cách mạng giải phóng dân tộc muốn
thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, tức là phải theo đường lối
Mác-Lênin”. Theo Hồ Chí Minh, con đường cách mạng vô sản ở thuộc địa bao
hàm nội dung sau:
- Làm cách mạng giải phóng dân tộc giành chính quyền, dần dần làm cách
mạng xã hội chủ nghĩa.
- Lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng
Cộng sản.
- Lực lượng làm cách mạng là khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt là
liên minh công – nông – trí.
- Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới. “Ai làm cách
mạng trong thế giới cũng là đồng chí của người An nam ta cả”. Cách mạng thuộc
địa phải gắn chặt với cách mạng vô sản chính quốc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình
đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là
chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển
sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo
kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng
5
tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng
nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành
công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của
cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân,
nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công
nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ
có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô
địch.
Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc
(mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm
lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên
trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự
do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa
trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''.
''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng
dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được
giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho
cái kia” như có người từng cố chứng minh.
Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc
như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở
chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng
lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một
6
chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên
giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ
trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo
và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí
Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản
cũng không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ
thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá
độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình
và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, rập khuôn những hình thức, bước đi, biện
pháp của nước khác.
3. Sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính
dân tộc của nhà nước ta:
Hồ Chí Minh là người giải quyết rất thành công mối quan hệ giữa các vấn
đề giai cấp- dân tộc trong xây dựng Nhà nước Việt Nam mới. Người đã giải
quyết hài hoà, thống nhất giữa bản chất giai cấp với tính nhân dân, tính dân tộc
và được biểu hiện rõ trong những quan điểm sau:
Thứ nhất: Nhà nước ta ra đời là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ
của rất nhiều thế hệ người Việt Nam từ quá trình dựng nước và giữ nước hàng
nghìn năm của dân tộc. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân tộc ta rơi vào khủng
hoảng đường lối cách mạng. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra dưới sự lãnh đạo của
các sĩ phu yêu nước song đều không giành được độc lập cho dân tộc. Từ ngày
3/2/1930 khi Đảng ta ra đời thì sự lớn mạnh của giai cấp công nhân với đội tiên
phong của nó là Đảng cộng sản Việt Nam đã vượt qua được tất cả các hạn chế và
đã lãnh đạo thắng lợi cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 đấu tranh giành chính
quyền, lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đấu tiên ở Đông Nam châu Á.
7
Thứ hai: Tính thống nhất của nó còn biểu hiện ở chỗ Nhà nước ta bảo vệ lợi
ích của nhân dân, lấy lợi ích của dân tộc làm cơ bản. Bản chất của vấn đề này là ở
chỗ, Hồ Chí Minh khẳng định lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân
dân lao động và của toàn dân tộc là một. Nhà nước ta không những thể hiện ý chí
của giai cấp công nhân mà còn thể hiện ý chí của nhân dân và của toàn dân tộc.
Thứ ba: Trong thực tế, Nhà nước ta đã đứng ra làm nhiệm vụ của cả dân tộc
giao phó, đã lãnh đạo nhân dân tiến hành các cuộc kháng chiến để bảo vệ nền độc
lập, tự do của Tổ quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển tiến bộ của thế
giới.
Như vậy, cơ sở của Nhà nước ta là khối đại đoàn kết dân tộc, khối đại đoàn
kết toàn dan. Sự thống nhất dân tộc là yếu tố bảo đảm tính bền vững, không chia
cắt và sức mạnh của nhà nước. Sự thống nhất lợi ích cơ bản của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, các dân tộc đã tại cơ sở khách quan quyết định sự
thống nhất bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc. Nhà
nước dân chủ nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân trở thành Nhà nước
của dân, do dân và vì dân.
III. Vận dụng vào thực tế công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
XHCN:
Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện
nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ
biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan
trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai
các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ
quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc
trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến
lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức
8