Bài tập nhóm môn kỹ năng tư vấn pháp luật đất đai đề số 4

  • 14 trang
  • file .pdf
MỤC LỤC
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Ông A là khách hàng đến trung tâm tư vấn pháp luật K ký hợp đồng tư vấn để yêu
cầu giải quyết một vụ việc như sau: Ông A có diện tích đất là 420m2 do cha ông để
lại, gia đình sử dụng từ năm 1976 đến nay, trong đó hiện tại ông sử dụng 200m 2 để
xây nhà, diện tích còn lại hiện đang trồng rau xanh và đào ao thả cá. Đất này ông
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đầu năm 2014, UBND huyện ra
thông báo thu hồi đất để mở rộng đường giao thông, trong đó diện tích 220m2 ông
trồng rau và đào ao thả cá thuộc phạm vi thu hồi. UBND huyện cũng gửi phương án
bồi thường và hỗ trợ cho gia đình ông là: giá đất bồi thường sẽ được tính trên cơ sở
giá đất nông nghiệp, trồng cây hằng năm theo bảng khung giá mà UBND tỉnh ban
hành. Mức hỗ trợ để ổn định đời sống được xác định là 30kg gạo x số lượng nhân
khẩu x 12 tháng. Ông A không đồng ý với phương án bòi thường và hỗ trợ với mức
nêu trên. Vì vậy ông tìm đến trung tâm tư vấn với yêu cầu: Soạn thảo cho ông đơn
khiếu nại. Với tư cách là chuyên gia tư vấn, anh
(chị) hãy:
a. Xác định những vấn đề mấu chốt và những câu hỏi pháp lí đặt ratrong vụ việc nêu
trên?
b. Hãy phác thảo cấu trúc đơn khiếu nại cho ông A gửi cơ quan nhànước có thẩm
quyền?
B. NỘI DUNG
a. Xác định những vấn đề mấu chốt và những câu hỏi pháp lí đặt ra trong vụ
việc nêu trên
Trước tiên cần xác định việc UBND huyện thu hồi đất 220m2 đất của gia đình ông A
là nhằm mục đích phát triển kinh tế- xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng, cụ thể là
dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật của địa phương về giao thông và đượ HĐND
tỉnh chấp thuận, đáp ứng căn cứ thu hồi đất quy định tại điều 63 Luật Đất đai năm
2013.
Về những vấn đề mấu chốt:
Thứ nhất: Ông A có đủ điều kiện để được bồi thường khi nhà nước thu hồi đất hay
không?
Căn cứ khoản 1 Điều 75 Luật Đất đai năm 2013, điều kiện để được bồi thường về đất
đai khi Nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phòng an ninh; phát triển kinh tế - xã
hội vì lợi ích quốc gia, công cộng gồm:
Một là, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không phải là đất thuê trả tiền thuê đất
hằng năm.
Hai là, có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở
và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và
tài sản khác gắn liền với đất (Giấy chứng nhận).
Ba là, có đủ điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất theo quy định của Luật đất đai mà chưa được
cấp.
Theo như thông tin mà ông A cung cấp thì mảnh đất 420m 2 là do cha ông để lại,
gia đình ông đã sử dụng từ năm 1976 và chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Đối chiếu với quy định trên, có thể thấy điểm mấu chốt để xác định ông A
được bồi thường về đất khi UBND huyện thu hồi đất là ông A có đủ điều kiện để
được cấp Giấy chứng nhận hay không. Câu hỏi đặt ra là: việc ông A chưa được cấp
Giấy chứng nhận là do ông A không đủ điều kiện để được cấp hay đã đủ điều kiện
nhưng ông chưa nộp đơn yêu cầu cấp giấy chứng nhận hoặc đã yêu cầu nhưng chưa
được cấp?:
Trường hợp một: ông A được Nhà nước bồi thường khi bị thu hồi đất và có quyền
khiếu nại nếu không đồng ý với phương án bồi thường nếu ông A đủ điều kiện được
cấp Giấy chứng nhận mặc dù chưa đi đăng ký. Nhận thấy gia đình ông A sử dụng đất
ổn định từ năm 1976, nếu có một trong các loại giấy tờ quy định tại điều 100 Luật đất
đai năm 2013 và điều 18 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật đất đai như: giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng
đất; sổ mục kê đất, sổ kiến điền lập trước ngày 18/12/1980…thì sẽ được cấp Giấy
chứng nhận. Trường hợp không có giấy tờ về quyền sử dụng đất, đã sử dụng đất ổn
định trước ngày 1/7/2004 không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được UBND xã
xác nhận đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì được cấp
Giấy chứng nhận. Có thể thấy, trong trường hợp của ông A khả năng được cấp giấy
chứng nhận là cao.
Trường hợp hai: Nếu ông A chưa được cấp Giấy chứng nhận là do ông A không đủ
điều kiện được cấp: không có một trong các loại giấy tờ quy định tại điều 100 hoặc
trong quá trình sử dụng có vi phạm pháp luật đất đai, bị UBND xã xác nhận là đất có
tranh chấp… thì ông A sẽ không được bồi thường. Trường hợp này đã được quy định
rõ tại điều 82 Luật Đất đai năm 2013 theo đó “trường hợp không đủ điều kiện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với
đất theo quy định của Luật này.” thì Nhà nước thu hồi đất không được bồi thường về
đất. Tuy nhiên cũng có ngoại lệ, trong trường hợp đất mà ông A bị thu hồi là đất nông
nghiệp đã sử dụng trước ngày 01/7/2004 mà ông A là người trực tiếp sản xuất nông
nghiệp, thì mặc dù không có Giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp
Giấy chứng nhận theo quy định của Luật đất đai vẫn được bồi thường đối với diện
tích đất thực tế đang sử dụng, diện tích đất được bồi thường không vượt quá hạn mức
giao đất nông nghiệp quy định tại điều 129 của Luật Đất đai năm 2013. (khoản 2 điều
77 Luật Đất đai năm 2013). Vì ông A chưa cung cấp cụ thể thông tin nên chưa thể
xác định được 220m2 đất mà hiện ông đang sử dụng là đất nông nghiệp, đất ở hay đất
phi nông nghiệp không phải đất ở nhưng lại sử dụng vào mục đích nông nghiệp
(trồng rau, thả cá). Nếu diện tích 220m2 là đất nông nghiệp thì được bồi thường mặc
dù không có giấy chứng nhận hoặc không đủ điều kiện để được cấp. Ngược lại, nếu
không phải là đất nông nghiệp thì ông A sẽ không được Nhà nước bồi thường khi thu
hồi đất. Trong trường hợp này ông A không nên làm đơn khiếu nại đối với phương án
bồi thường mà UBND huyện đã gửi. Thứ hai: Phương án bồi thường mà UBND
huyện đề ra liệu đã phù hợp chưa?
Theo như quy định của Luật Đất đai tại điều 74, về nguyên tắc khi thu hồi đất Nhà
nước phải bồi thường bằng việc giao đất có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu
hồi, chỉ khi không có đất để bồi thường thì mới bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ
thể của loại đất thu hồi do UBND tỉnh quyết định tại thời điểm quyết định thu hồi đất.
Có nghĩa, nếu 220m2 mà gia đình ông A sử dụng vào mục đích nông nghiệp là đất
nông nghiệp thì phải bồi thường bằng đất nông nghiệp… Tuy nhiên, theo như thông
tin mà ông A cung cấp thì UBND huyện đã gửi phương án bồi thường bằng tiền: giá
đất bồi thường sẽ được tính trên cơ sở giá đất nông nghiệp, trồng cây hằng năm theo
bảng khung giá mà UBND tỉnh ban hành. Mức hỗ trợ để ổn định đời sống được xác
định là 30kg gạo x số lượng nhân khẩu x 12 tháng. Như vậy, về phương án bồi
thường của UBND huyện chưa chắc đã đúng trình tự mà pháp luật quy định, trường
hợp này cần tìm hiểu về quỹ đất ở địa phương để xác định ở địa phương đó có còn
đất để bồi thường không, sau đó mới tính đến việc bồi thường bằng tiền.
Nhận thấy, đất mà ông A bị thu hồi có trồng rau xanh (xác định là cây trồng hằng
năm), thả cá (xác định là vật nuôi thủy sản), do đó khi Nhà nước thu hồi diện tích đất
này của ông A mà gây ra thiệt hại đối với cây trồng hằng năm và vật nuôi là thủy sản
thì Nhà nước còn phải thực hiện bồi thường cho ông A theo quy định tại Điều 90
Luật đất đai năm 2013. Cụ thể:
Đối với cây hàng năm, mức bồi thường được tính bằng giá trị sản lượng của vụ thu
hoạch. Giá trị sản lượng của vụ thu hoạch được tính theo năng suất của vụ cao nhất
trong 03 năm trước liền kề của cây trồng chính tại địa phương và giá trung bình tại
thời điểm thu hồi đất. Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời điểm thu hồi đất đã đến
thời kỳ thu hoạch thì không phải bồi thường; Đối với vật nuôi là thủy sản mà tại thời
điểm thu hồi đất chưa đến thời kỳ thu hoạch thì được bồi thường thiệt hại thực tế do
phải thu hoạch sớm; trường hợp có thể di chuyển được thì được bồi thường chi phí di
chuyển và thiệt hại do di chuyển gây ra; mức bồi thường cụ thể do Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh quy định.
Như vậy căn cứ vào những thông tin mà ông A cung cấp và những quy định của pháp
luật đất đai có thể khẳng định phương án bồi thường đối với hộ gia đình ông A như
vậy là chưa hợp lý. Ngoài các khoản bồi thường về đất, khoản hỗ trợ ổn định đời
sống như đã nói, Nhà nước còn phải thực hiện việc bồi thường thiệt hại đối với cây
trồng vật nuôi nằm trên diện tích đất bị Nhà nước thu hồi cho ông A nữa.
Về những câu hỏi pháp lý đặt ra:
- Áp dụng luật đất đai năm nào? Áp dụng những văn bản pháp luật có liên quan nào?
Thời điểm thực hiện phương án bồi thường và hỗ trợ cho gia đình ông A là khi nào?
(trước hay sau khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực?)
- Loại đất của diện tích đất có quyết định thu hồi? (đất ở, đất phi nông nghiệp không
phải đất ở hay đất nông nghiệp?) Diện tích đất bị thu hồi của gia đình ông A có đủ
điều kiện để được bồi thường không? Căn cứ pháp lý? Thửa đất của gia đình ông A
thuộc địa bàn nào?
- Mức bồi thường mà UBND bồi thường cho ông A đã hợp lý chưa?
- Giá đất bồi thường có phù hợp với bảng giá đất do UBND tỉnh nơi gia đình ông A
sinh sống ban hành hay không?
b. Hãy phác thảo cấu trúc đơn khiếu nại cho ông A gửi cơ quan nhà nước có thẩm
quyền?
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 204 Luật Đất đai 2013 thì trình tự, thủ tục giải
quyết khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về đất đai thực hiện theo
quy định của pháp luật về khiếu nại. Luật Khiếu nại năm 2011 quy định hai hình thức
khiếu nại: khiếu nại bằng đơn và khiếu nại trực tiếp, căn cứ khoản 2 điều 8 Luật
Khiếu nại 2011, trường hợp khiếu nại được thực hiện bằng đơn như yêu cầu của ông
A thì trong đơn khiếu nại phải ghi rõ những nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm khiếu nại;
- Tên, địa chỉ của người khiếu nại (họ tên đầy đủ và địa chỉ của ông A);
- Tên, địa chỉ của cơ quan, tổ chức, cá nhân bị khiếu nại (UBND huyện đã ra thông
báo thu hồi đất và gửi phương án bồi thường, hỗ trợ và địa chỉ là nơi trụ sở UBND đó
được đặt); Nội dung, lý do khiếu nại cần nêu những vấn đề sau: + Tóm tắt việc khiếu
nại: Đầu năm 2014, UBND huyện thông báo thu hồi đất để mở rộng đường giao
thông. Trong đó, 220 m 2 đất gia đình ông A đào ao, thả cá trồng rau (trong tổng diện
tích 420m 2 gia đình ông sử dụng) thuộc phạm vi thu hồi. UBND huyện có gửi
phương án bồi thường và hỗ trợ cho gia đình ông (…) nhưng ông không đồng ý với
phương án và mức hỗ trợ mà UBND huyện đưa ra. + Trình bày những quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm hại như thế nào: