Ảnh hưởng của cam kết trong wto đến đầu tư nước ngoài của việt nam và giải pháp

  • 17 trang
  • file .doc
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU:....................................................................................................................................................... 2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:............................................................................................................................... 3
1. Cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO......................................................................... 3
1.1. Cam kết đa phương....................................................................................................................... 3
1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu..................................................................................................... 6
1.3. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ.......................................................................... 6
2. Tác động của các cam kết trong WTO đến hoạt động
đầu tư nước ngoài của Việt Nam............................................................................................. 8
2.1. Tác động của các cam kết trong WTO đến hoạt động
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.................................................................................................... 8
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt Nam
10
3. Giải pháp cho đầu tư nước ngoài của Việt Nam.........................................................12
KẾT LUẬN:........................................................................................................................................................... 17
1
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
LỜI MỞ ĐẦU
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là một tổ chức quốc tế có chức năng
giám sát các hiệp định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các
quy tắc thươnng mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm
thiểu các rào cản thương mại để tiến tới tự do hoá thương mại. Việt Nam là
một trong những nước đang phát triển, cơ cấu các ngành nghề chưa cân đối, tỷ
trọng nhập khẩu quá lớn so với xuất khẩu... Việc gia nhập WTO là một xu thế
tất yếu nhằm tiếp cận thị trường thương mại toàn cầu, nâng cao vị thế của Việt
Nam trên thị trường thương mại quốc tế, tạo tiền đề hội nhập và phát triển nền
kinh tế. Gia nhập WTO nghĩa là gia nhập thị trường thương mại toàn cầu, với
hành lang pháp lý là Quy chế WTO và những hiệp định thương mại song
phương và đa phương được ký kết với các nước thành viên WTO sẽ mang lại
nhiều lợi ích cho các nước đang phát triển.
Ngày 11/01/07, Việt Nam đã chính thưc trở thành thành viên đầy đủ thứ
150 của WTO. Sau 2 năm là thành viên của WTO, môi trường đầu tư Việt
Nam, cơ chế pháp lý trong nước đã được cải thiện, phù hợp với thông lệ thế
giới Việt Nam trở thành địa chỉ đầu tư hấp dẫn.
Thanh viên của WTO phải tham gia đàm phán song phương và đa
phương với các nước thành viên từ đó đưa ra các cam kết. Quá trình thực
hiện các cam kết khi gia nhập WTO có tác động như thế nào đến hoạt động
đầu tư nước ngoài của Việt Nam là một vấn đề cần quan tâm. Do đó trên cơ
sở lý thuyết đã học và nghiên cứu thực tiến đề ở nước ta, đề tài “Ảnh hưởng
của cam kết trong WTO đến đầu tư nước ngoài của Việt Nam và giải
pháp” đã được chọn làm tiểu luận môn kinh tế quốc tế.
Tiểu luận gồm ba phần chính:
1. Đặt vấn đề.
2. Giải quyết vấn đề.
3. Kết thúc vấn đề.
Do có nhiều hạn chế về mặt thời gian, cũng như tài liệu tham khảo, tiểu
luận của em khó tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được những ý
kiến đóng góp quý báu của thầy giáo, các bạn bè cùng tất cả các bạn đọc
khách quan tâm tới đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn.
2
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM KHI GIA NHẬP WTO.
1.1. Cam kết đa phương.
Theo kết quả đàm phán, Việt Nam đồng ý tuân thủ toàn bộ các hiệp
định và quy định mang tính ràng buộc của WTO từ thời điểm gia nhập. Tuy
nhiên do nước ta đang phát triển ở trình độ thấp lại đang trong quá trình
chuyển đổi nên ta yêu cầu và được WTO chấp nhận cho hưởng một thời gian
chuyển đổi để thực hiện một số cam kết có liên quan đến thuế tiêu thụ đặc
biệt, trợ cấp phi nông nghiệp, quyền kinh doanh.
Các cam kết chính trong vấn đề đa phương là: Việt Nam chấp nhận bị
coi là nền kinh tế phi thị trường trong 12 năm tới.
Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu ta chứng minh được với đối tác
nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì đối
tác đó ngừng áp dụng chế độ “phi thị trường” đối với ta. Chế độ “phi thị
trường” chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Và các thành
viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất
khẩu nước ta dù ta bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt
may đối với Việt Nam khi vào WTO (riêng trường hợp ta vi phạm quy định
WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì một số nước có thể có biện
pháp trả đũa nhất định). Ngoài ra thành viên WTO cũng sẽ không được áp
dụng tự vệ đặc biệt đối với hàng dệt may của nước ta.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại
trợ cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa
hóa. Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho hàng xuất khẩu đã cấp trước
ngày gia nhập WTO, ta được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm (trừ ngành
dệt may).
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất
khẩu đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên, ta bảo lưu quyền
được hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển
3
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
trong lĩnh vực này. Đối với loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm nhìn
chung ta duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức
này, ta còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng
mỗi năm. Các loại trợ cấp mang tính chất khuyến nông hay trợ cấp phục vụ
phát triển nông nghiệp được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn
chế.
Về quyền kinh doanh (quyền xuất nhập khẩu hàng hóa): Việt Nam đồng
ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được quyền xuất nhập khẩu hàng
hóa như người Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ các mặt hàng thuộc danh
mục thương mại nhà nước (như xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình,
báo chí) và một số mặt hàng nhạy cảm khác mà ta chỉ cho phép sau một thời
gian chuyển đổi.
Cam kết của Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước
ngoài không có hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu
tại Việt Nam. Quyền xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải
quan để làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, DN và cá nhân
nước ngoài sẽ không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong
nước. Các cam kết về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của
ta trong việc đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối
với sản phẩm nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo - tạp chí…
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng
ý cho ta thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi
là đối với rượu trên 20 độ cồn hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối hoặc
một mức thuế phấn trăm. Đối với bia, sẽ chỉ áp dụng một mức thuế phần
trăm.
Đối với doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp thương mại nhà
nước, cam kết trong lĩnh vực này là nhà nước sẽ không can thiệp trực tiếp
hay gián tiếp vào hoạt dộng DNNN. Tuy nhiên, nhà nước với tư cách là một
cổ đông được can thiệp bình đẳng vào hoạt động của DN như các cổ đông
khác. Ta cũng đồng ý cách hiểu mua sắm của DNNN không phải là mua sắm
Chính phủ.
4
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
Về tỷ lệ cổ phần thông qua quyết định tại DN: Điều 52 và 104 của Luật
DN quy định một số vấn đề quan trọng có liên quan đến hoạt động của công
ty TNHH và Công ty cổ phần chỉ được phép thông qua khi có số phiếu đại
diện ít nhất là 65% hoặc 75% vốn góp chấp thuận. Quy định này có thể vô
hiệu hóa quyền của bên góp đa số vốn trong liên doanh. Do vậy, ta đã xử lý
theo hướng cho phép các bên tham gia liên doanh được thỏa thuận vấn đề
này trong điều lệ công ty
Về một số biện pháp hạn chế nhập khẩu, ta đồng ý cho nhập khẩu xe
máy phân phối lớn không muộn hơn ngày 31/5/2007. Với thuốc lá điếu và xì
gà, ta đồng ý bỏ biện pháp cấm nhập khẩu từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên
sẽ chỉ có một DN nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ thuốc lá điều và
xì gà. Mức thuế nhập khẩu mà ta đàm phán được cho hai mặt hàng này là rất
cao. Với ôtô cũ ta cho phép nhập khẩu các loại xe đã qua sử dụng không quá
5 năm.
Về cam kết thực hiện minh bạch hóa, ngay từ khi gia nhập Việt Nam sẽ
công bố dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ quốc hội và Chính phủ ban hành để lấy ý kiến nhân dân. Thời hạn
dành cho việc góp ý và sửa đổi tối thiểu là 60 ngày. Việt Nam cũng cam kết
sẽ đăng công khai các văn bản pháp luật trên các tạp chí, trang tin điện tử
của bộ, ngành.
Một số cam kết liên quan khác: thuế xuất khẩu, Việt Nam chỉ cam kết
sẽ giảm thuế xuất khẩu đối với phế liệu kim loại đen và màu theo lộ trình,
không cam kết về thuế xuất khẩu của các sản phẩm khác.
Về đa phương, Việt Nam còn đàm phán một số vấn dề đa phương khác
như bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là sử dụng phần mềm hợp pháp
trong cơ quan Chính phủ. Định giá tính thuế xuất nhập khẩu, các biện pháp
đầu tư liên quan đến thương mại, các biện pháp hàng rào kỹ thuật trong
thương mại… Với nội dung này, ta cam kết tuân thủ các quy định của WTO
kể từ khi gia nhập.
5
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
1.2. Cam kết về thuế nhập khẩu.
Mức cam kết chung của Việt Nam là đồng ý ràng buộc mức trần cho
toàn bộ biểu thuế (10.600 dòng). Mức thuế bình quân toàn biểu được giảm từ
mức hiện hành 17,4% xuống còn 13,4% thực hiện dần trung bình 5 - 7 năm.
Mức thuế bình quân đối với hàng nông sản giảm từ mức hiện hành 23,5%
xuống còn 20,9% thực hiện trong khoảng 5 năm. Với hàng công nghiệp từ
16,8% xuống còn 12,6% thực hiện chủ yếu trong vòng 5 - 7 năm.
Mức cam kết cụ thể: sẽ có khoảng hơn 1/3 dòng số dòng thuế sẽ phải
cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Các mặt hàng trọng
yếu, nhạy cảm đối với nền kinh tế như nông sản, xi măng, sắt thép, vật liệu
xây dựng, ôtô - xe máy… vẫn duy trì được mức bảo hộ nhất định.
Những ngành có mức giảm thuế nhiều nhất bao gồm: dệt may, cá và sản
phẩm cá, gỗ và giấy, hàng chế tạo khác, máy móc và thiết bị điện - điện tử.
Bên cạnh đó, Việt Nam đạt được mức thuế trần cao hơn mức đang áp dụng
đối với nhóm hàng xăng dầu, kim loại, hóa chất là phương tiện vận tải.
Cam kết của Việt Nam sẽ cắt giảm thuế theo một số hiệp định tự do
theo ngành của WTO (giảm thuế xuống 0% hoặc mức thấp). Đây là hiệp
định tự nguyện của WTO nhưng các nước mới gia nhập đều phải tham gia
một số ngành. Ngành mà ta cam kết tham gia là sản phẩm công nghệ thông
tin, dệt may và thiết bị y tế. Ta cũng tham gia một phần với thời gian thực
hiện từ 3 - 5 năm đối với ngành thiết bị máy bay, hóa chất và thiết bị xây
dựng.
Về hạn ngạch thuế quan, ta bảo lưu quyền áp dụng với đường, trứng gia
cầm, lá thuốc lá và muối.
1.3. Cam kết về mở của thị trường dịch vụ.
Về diện cam kết, trong Hiệp định thương mại song phương (BTA) với
Hoa Kỳ ta đã cam kết 8 ngành dịch vụ (khoảng 65 phân ngành). Trong thỏa
thuận WTO, ta cam kết đủ 11 ngành dịch vụ, tính theo phân ngành khoảng
110 ngành. Về mức độ cam kết, với hầu hết các ngành dịch vụ, trong đó có
những ngành nhạy cảm như bảo hiểm, phân phối, du lịch… ta giữ được mức
độ cam kết gần như trong BTA. Riêng viễn thông, ngân hàng và chứng
6
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
khoán, để sớm kết thúc đàm phán, ta đã có một số bước tiến nhưng nhìn
chung không quá xa so với hiện trạng và đều phù hợp với định hướng phát
triển đã được phê duyệt cho các ngành này.
Cam kết chung cho các ngành dịch vụ về cơ bản như BTA. Trước hết,
công ty nước ngoài không được hiện diện tại Việt Nam dưới hình thức chi
nhánh, trừ phi điều đó được ta cho phép trong từng ngành cụ thể. Ngoài ra,
công ty nước ngoài tuy được phép đưa cán bộ quản lý vào làm việc tại Việt
Nam nhưng ít nhất 20% cán bộ quản lý của công ty phải là người Việt Nam.
Cuối cùng, ta cho phép tổ chức và cá nhân nước ngoài được mua cổ phần
trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng tỷ lệ phải phù hợp với mức mở cửa
thị trường ngành đó. Riêng ngân hàng ta chỉ cho phép ngân hàng nước ngoài
mua tối đa 30% cổ phần.
Dịch vụ khai thác hỗ trợ dầu khí: Đồng ý cho phép các DN nước ngoài
được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài sau 5 năm kể từ khi gia nhập
để đáp ứng các dịch vụ hỗ trợ khai thác dầu khí. Tuy nhiên, Việt Nam còn
giữ nguyên quyền quản lý các hoạt động trên biển, thềm lục địa và quyền chỉ
định các ty thăm dò, khai thác tài nguyên. Bảo lưu được một danh mục các
dịch vụ dành riêng cho các DN Việt Nam như dịch vụ bay, dịch vụ cung cấp
trang thiết bị và vật phẩm cho dàn khoan xa bờ… Tất cả các công ty vào
Việt Nam cung ứng dịch vụ hỗ trợ dầu khí đều phải đăng ký với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Dịch vụ viễn thông, Việt Nam có thêm một số nhận nhượng so với
BTA nhưng ở mức độ hợp lý, phù hợp với chiến lược phát triển của ta. Cụ
thể là cho phép thành lập liên doanh đa số vốn nước ngoài để cung cấp dịch
vụ viễn thông không gắn với hạ tầng mạng (phải thuê mạng do DN Việt
Nam nắm quyền kiểm soát) và nới lỏng một chút về việc cung cấp dịch vụ
qua biên giới để đổi lấy giữ lại hạn chế áp dụng cho viễn thông có gắn với hạ
tầng mạng (chỉ các doanh nghiệp nhà nước nắm đa số vốn mới đầu tư hạ
tầng mạng, nước ngoài chỉ được góp vốn đến 49% và cũng chỉ được liên
doanh với đối tác Việt Nam đã được cấp phép).
Dịch vụ phân phối, về cơ bản giữ được như BTA, tức là khá chặt só với
các nước mới gia nhập. Trước hết, về thời điểm cho phép thành lập DN
7
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
100% vốn nước ngoài là như BTA (1/1/2009). Thứ hai, tương tự như BTA,
ta không mở cửa thị trường phân phối xăng dầu, dược phẩm, sách báo, tạp
chí, băng hình, thuốc lá, gạo, đường và kim loại quý cho nước ngoài. Nhiều
sản phẩm nhạy cảm như sắt thép, xi măng, phân bón… ta chỉ mở cửa thị
trường sau 3 năm. DN có vốn đầu tư nước ngoài, mở điểm bán lẻ thứ hai trở
đi phải được ta cho phép theo từng trường hợp cụ thể.
Dịch vụ bảo hiểm, về tổng thể, mức độ cam kết ngang BTA, tuy nhiên,
ta đồng ý cho Hoa Kỳ thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm
kể từ ngày gia nhập.
Dịch vụ ngân hàng, ta đồng ý cho thành lập ngân hàng con 100% vốn
nước ngoài không muộn hơn ngày 1/4/2007. Ngoài ra ngân hàng nước ngoài
muốn được thành lập chi nhánh tại Việt Nam nhưng chi nhánh đó không
được phép mở chi nhánh phụ và vẫn phi chịu hạn chế về huy động tiền gửi
bằng VND từ thể nhân Việt Nam trong vòng 5 năm kể từ khi ta gia nhập
WTO. Ta vẫn giữ được hạn chế về mua cổ phần trong ngân hàng Việt Nam
(không quá 30%).
Dịch vụ chứng khoán, ta cho phép thành lập công ty chứng khoán 100%
vốn nước ngoài và chi nhánh sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO.
Các cam kết khác, với các ngành còn lại như du lịch, giáo dục, pháp lý,
kế toán, xây dựng, vận tải… mức độ cam kết về cơ bản không khác nhiều so
với BTA. Ngoài ra không mở cửa dịch vụ in ấn - xuất bản.
2. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC CAM KẾT TRONG WTO ĐẾN HOẠT
ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM.
2.1. Tác động của các cam kết trong WTO đến hoạt động đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam.
Việt Nam trở thành thành viên chính thức WTO cũng đã và đang mở ra
những cơ hội mới trong thu hút FDI.Trước hết, việc gia nhập WTO đã tạo
điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia thị trường xuất khẩu hàng
hóa quốc tế một cách bình đẳng, góp phần khắc phục trở ngại về thị trường
mà lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam, kể cả doanh nghiệp có vốn đầu tư
8
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
nước ngoài thường gặp phải. Điều đó đã tạo điều kiện thu hút nhiều hơn các
nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư tại Việt Nam để xuất khẩu ra thế giới.
Thứ 2, Việt Nam cam kết mở cửa 11/12 ngành dịch vụ, gồm 110 phân
ngành theo quy định của WTO, trong đó có một số ngành quan trọng như:
dịch vụ viễn thông, bảo hiểm, ngân hàng, chứng vận tải, bảo hộ sở hữu trí
tuệ... Điều này đã tạo điều kiện thu hút FDI vào lĩnh vực kinh doanh dịch vụ
tại Việt Nam và tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư
lâu dài ở Việt Nam.
Thứ ba, việc gia nhập WTO cũng đòi hỏi Việt Nam tiếp tục xây dựng
môi trường pháp lý hoàn chỉnh và minh bạch hơn. Việt Nam đã cam kết kể
từ khi gia nhập WTO sẽ tuân thủ toàn bộ các hiệp định quan trọng của WTO
liên quan đến chính sách tài chính, tiền tệ, doanh nghiệp nhà nước, quyền
kinh doanh, trợ cấp, các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
(TRIMs), tuân thủ nguyên tắc không phân biệt đối xử của WTO (trừ một số
ngoại lệ), loại bỏ toàn bộ các biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu, bãi bỏ
chế độ hai giá, bãi bỏ áp dụng tỉ lệ xuất khẩu bắt buộc đối với các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Điều này (được thể hiện trong Luật Đầu
tư và Luật Doanh nghiệp mới cùng các văn bản hướng dẫn) sẽ thúc đẩy mở
cửa các ngành kinh tế và tăng tính hấp dẫn của Việt Nam đối với đầu tư
nước ngoài.
Thứ tư, việc gia nhập WTO tạo điều kiện thúc đẩy nâng cao hiệu quả và
sức cạnh tranh của nền kinh tế của doanh nghiệp và của sản phẩm Việt Nam.
Đồng thời, việc sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO cũng tạo
thêm lòng tin cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Ngoài ra, Việt Nam có những lợi thế về nhân công giá rẻ, nguồn nhân
lực Việt Nam ham học hỏi, chăm chỉ, và có tâm lí tốt. Vấn đề quy hoạch
vùng, đặc biệt là quy hoạch khu công nghiệp của Việt Nam hiện rất tốt; đưa
ra nhiều khu công nghiệp để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Hạ tầng cơ
sở của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể.
Có thể khẳng định rằng, việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO tiếp tục có tác động lớn làm cho dòng vốn FDI tăng cao và sẽ tiếp
tục tăng trưởng. Bên cạnh sự tăng lên mạnh mẽ về số lượng dự án đầu tư
9
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
nước ngoài cũng như về vốn đăng ký mới, các dự án đầu tư mới trong thời
gian tới sẽ hướng dần đến những ngành, lĩnh vực công nghệ cao, công nghệ
nguồn, gia tăng xuất khẩu, tạo việc làm, các dự án sản xuất các sản phẩm,
dịch vụ có sức cạnh tranh, các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng.
2.2. Kết quả đạt được trong hoạt động đầu tư nước ngoài của Việt
Nam.
Sau khi ra nhập WTO và thực hiện các cam kết giữa các thành viên,
Việt Nam đã đạt được những thành tựu lớn về kinh tế - xã hội, đã và đang
tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, những cơ hội đầu tư mới cho các nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO cũng mở ra những cơ hội mới trong thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong năm 2007, Việt Nam có hơn 1.400 dự án đầu tư nước ngoài mới
được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt gần 18 tỷ
USD. Đồng thời có khoảng 380 lượt dự án đầu tư đang hoạt động đăng ký
tăng vốn, với tổng vốn tăng thêm đạt 2,4 tỷ USD. Tính chung, thu hút FDI
đạt 20,3 tỷ USD, tăng gần 70% so với năm 2006, gần bằng tổng mức đầu tư
nước ngoài của 5 năm 2001-2005 và chiếm tới gần 20% tổng vốn đầu tư
nước ngoài trong 20 năm qua.
Nổi bật trong thu hút nguồn vốn FDI năm 2007 là các dự án đầu tư đã
tập trung vào các lĩnh vực mà Việt Nam ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài để
phục vụ quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như các dự án
công nghệ cao, khu đô thị mới, hiện đại... Điều này phù hợp với định hướng
thu hút FDI của Việt Nam trong giai đoạn 2006 - 2010.
Trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, Hàn Quốc là
nhà đầu tư lớn nhất với 1.837 dự án với tổng vốn đầu tư 13,5 tỉ USD.
FDI vào Việt Nam đã đóng góp cho nền kinh tế rất lớn. Hiện có trên
8.590 dự án của 81 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động có tổng vốn đầu
tư trên 83,1 tỉ USD, trong đó vốn thực hiện đạt 29,2 tỷ USD. Vốn FDI chiếm
tỷ trọng 18% tổng vốn đầu tư xã hội, đóng góp 16,2% GDP, chiếm 19,78%
kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu thô) và 37% giá trị sản xuất công nghiệp
của cả nước.
10
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
Tác động cụ thể của dòng vốn FDI là đã tạo ra các khu công nghiệp tập
trung. Hiện nay cả nước có trên 150 khu công nghiệp - khu chế xuất, dự kiến
đến năm 2015 sẽ thành lập mới thêm 115 khu công nghiệp và mở rộng 27
khu công nghiệp.
Rõ ràng FDI đã tạo ra những khu công nghiệp tập trung để các doanh
nghiệp nước ngoài và Việt Nam vào sản xuất tại đó, thay vì những nhà máy
công nghiệp trước đây nằm rải rác trong các thành phố. Giá trị sản xuất công
nghiệp của các khu công nghiệp trên cả nước chiếm khoảng 30% tổng giá trị
sản xuất công nghiệp cả nước. Vì là khu công nghiệp tập trung nên thủ tục
cấp phép tại các khu công nghiệp hoàn thiện hơn theo cơ chế một cửa, đơn
giản và hạ tầng cũng như dịch vụ hải quan thuận tiện.
Một thành công nữa là Việt Nam đã thu hút được các tập đoàn lớn vào
kinh doanh tại Việt Nam. Điều đó đã tạo ra uy thế cho Việt Nam cũng như
giá trị sản phẩm trên trường quốc tế. Hiện có trên 110 các tập đoàn đa quốc
gia (TNCs) trong danh sách 500 tập đoàn đa quốc gia lớn nhất thế giới (do
tạp chí uy tín Fortune 500 công bố) đã đầu tư vào Việt Nam với tổng vốn
đăng ký là 11,09 tỉ USD, chiếm một tỉ trọng lớn, 20% tổng vốn FDI của cả
nước.
Các tập đoàn này đầu tư vào các lĩnh vực giữ vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế của Việt Nam. Ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí có BP,
Statoil, ConocoPhilips, Petronas, Chevron; điện năng lượng có BP, EDF,
Tokyo Electric, AES; ôtô-xe máy có Honda, Toyota, DaimlerCrysler,
Yamaha...; điện tử có Sony, Matsushita, Samsung, Toshiba, Cannon...
Xu hướng hiện nay đầu tư vào các dự án lớn gia tăng: năm 2006, để
chuẩn bị đón đầu cho việc gia nhập WTO của Việt Nam, một loạt công ty
lớn đã đặt chân đến Việt Nam trong đó có những dự án lớn được cấp phép
như tập đoàn Intel đã đầu tư 605 triệu USD xây dựng nhà máy tại Việt Nam,
ngày 10/11/2006 công bố mở rộng lên 1 tỷ USD; dự án nhà máy sản xuất
thép của Tập đoàn Posco (Hàn Quốc) tại khu công nghiệp Phú Mỹ II có tổng
vốn đầu tư đăng ký trên 1,2 tỷ USD...
Tình hình này tiếp tục diễn biến trong năm 2007 với xu hướng tích cực
hơn, nhiều dự án lớn được cấp phép như: dự án sản xuất thép của Ấn Độ ở
11
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
Bà Rịa-Vũng Tàu với số vốn 527 triệu USD; dự án xây dựng khu resort của
Singapore ở Thừa Thiên - Huế 276 triệu USD; dự án xây dựng khách sạn-
căn hộ cao cấp Keangnam tại Hà Nội của Hàn Quốc 500 triệu USD; dự án
sản xuất xi măng Hệ Dưỡng tại Ninh Bình 360 triệu USD; dự án sản xuất bột
giấy của B.V.Islands tại Hậu Giang 349 triệu USD; dự án của Tập đoàn Điện
tử Compal-Đài Loan ở Vĩnh Phúc 500 triệu USD.
Tuy nhiên, Đầu tư nước ngoài tăng mạnh trong thời gian qua nhưng vẫn
còn chưa tương xứng với tiềm năng, đặc biệt là vốn thực hiện còn thấp so
với vốn cam kết. Còn có sự mất cân đối về ngành nghề, vùng lãnh thổ, nhất
là đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và chế biến nông sản thực phẩm còn ít;
Đầu tư nước ngoài chủ yếu vẫn tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm;
ngành công nghiệp phụ trợ chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài.
Việc chuyển giao công nghệ tiên tiến trong hoạt động đầu tư nước ngoài
cũng còn những hạn chế do số dự án công nghệ cao chưa nhiều, một số dự
án còn sử dụng công nghệ lạc hậu, đặc biệt là ở thời gian đầu, chưa đảm bảo
quy chuẩn về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, ở một số nơi, lương của người
lao động còn thấp, điều kiện làm việc không bảo đảm, chưa tương xứng với
đóng góp của người lao động.
3. GIẢI PHÁP CHO ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM.
Việt nam là một có nước đang phát triển vấn đề vốn là một yết tố quan
trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, Việt
nam cần đưa ra những giải pháp nhằm đẩy đầu tư nước ngoài với chất lượng
cao hơn, lĩnh vực đầu tư đa dạng hơn.
Thứ nhất hiện Chính phủ Việt Nam đang chuẩn bị các điều kiện thuận
lợi nhất cho việc thu hút ở mức cao nhất và sử dụng có hiệu quả nhất dòng
vốn FDI đang tăng mạnh tại Việt Nam, trong đó có việc thực hiện có hiệu
quả và đúng lộ trình các cam kết song phương và đa phương trong quá trình
hội nhập quốc tế; tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường, cải cách thủ tục hành
chính, hệ thống tài chính, ngân hàng; tăng cường đào tạo nguồn nhân lực,
khắc phục các yếu kém về kết cấu hạ tầng và phát triển ngành công nghiệp
phụ trợ".
12
Kinh tÕ Quèc tÕ Ng« Hång V©n - Líp CH16Q
Thứ hai, hoàn thiện những việc chuyển giao như mở các lĩnh vực về
dịch vụ; duy trì và thực hiện khuyến khích về thuế với những máy móc công
nghiệp kỹ thuật cao, cân nhắc lại về thuế với những máy móc ứng dụng cho
các doanh nghiệp xuất khẩu; chắt lọc những mối quan hệ giữa WTO và
những thoả thuận đầu tư song phương với các nước khác; cải thiện giáo dục
và hệ thống đào tạo để đẩy mạnh những kỹ sư và công nhân tay nghề cao...
Thứ ba, về môi trường pháp lý: tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường và triển khai có hiệu quả các đạo luật mới như Luật Doanh nghiệp,
Luật Đầu tư, sửa đổi Luật Thuế, Luật Ngân hàng, Bảo hiểm, Sở hữu trí tuệ,
Hải quan… Ban hành các văn bản hướng dẫn còn thiếu, đảm bảo tính đồng
bộ, thống nhất và minh bạch của hệ thống pháp lý về đầu tư- kinh doanh,
nhất là các văn bản liên quan trực tiếp đến hoạt động của các doanh nghiệp
(về quyền sử dụng đất, về huy động vốn, về lao động, về thuế, đặc biệt là
cách tính thuế và thu thuế).
Rà soát, điều chỉnh các cam kết về mở cửa thị trường cho các nhà đầu
tư nước ngoài trong lĩnh vực thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ
theo đúng các cam kết của WTO. Công khai các văn bản pháp quy của các
Bộ, ngành có liên quan về điều kiện đầu tư hoặc hành nghề của các doanh
nghiệp nói chung để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với các cam kết của Nhà
nước ta. Đồng thời, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành các văn bản về quản
lý đầu tư nước ngoài trên địa bàn theo hướng minh bạch, rõ ràng về đầu mối,
thời gian, đầu mục hồ sơ…
Tập trung thực hiện các công việc theo nội dung công văn số
2513/BKH - ĐTNN của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ký ngày
13/4/2007 về tăng cường quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài trong tình
hình mới.
Tiếp tục huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, trong đó có việc
ban hành quy chế khuyến khích tư nhân, đầu tư nâng cấp các công trình giao
thông, cảng biển, dịch vụ viễn thông, cung cấp điện nước, phấn đấu không
để xảy ra tình trạng thiếu điện cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Điều chỉnh quy hoạch các ngành cho phù hợp với các thỏa thuận và
cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập. Đặc biệt chú trọng công tác dự báo
13